Thúc đẩy quản lý chất thải hướng tới kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
15/04/2024TN&MTViệt Nam được xem là một trong những quốc gia có hành động mạnh mẽ nhằm thể chế hóa và thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn vào thực tiễn. Việt Nam đã và đang nỗ lực đưa kinh tế tuần hoàn vào định hướng chính sách, văn bản pháp luật dưới sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Áp dụng kinh tế tuần hoàn quản lý chất thải
Kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà còn là sự kết nối giữa các hoạt động kinh tế một cách có tính toán từ trước, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Trong KTTH, quản lý chất thải được xem là trung tâm và tư duy xem chất thải là tài nguyên được tiến hành ngay từ khi thiết kế các sản phẩm, dịch vụ, chu trình sản xuất, kinh doanh. Thông qua đó, KTTH giúp giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, hạn chế chất thải ra môi trường, nhưng vẫn thúc đẩy phát triển kinh tế. So với kinh tế tuyến tính truyền thống, KTTH mang lại nhiều lợi ích đối với quốc gia, cộng đồng và doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, phát triển KTTH đã được xác định là một trong những mô hình kinh tế ưu tiên để thực hiện định hướng quản lý chất thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên, BVMT, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu, trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Theo đó, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 đã khẳng định “khuyến khích phát triển mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”. Luật BVMT 2020 đã có một điều riêng (Điều 142) quy định về KTTH. Trong đó, xác định KTTH là “mô hình kinh tế mà trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm thiểu khai thác nguyên vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và loại bỏ các tác động tiêu cực tới môi trường”. Bên cạnh đó, rất nhiều điều, khoản khác có vai trò thúc đẩy thực hiện KTTH, như: Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn (Điều 75), tính giá thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên khối lượng hoặc thể tích (Điều 79); trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và nhập khẩu - EPR (Điều 54, Điều 55); tái chế, tái sử dụng chất thải, phát triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, tín dụng xanh, trái phiếu xanh,...
Theo ông Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT, Việt Nam đang hoàn thiện dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH với đầy đủ các nội dung, khá tương đồng với xu hướng quốc tế, Kế hoạch của ASEAN và những vấn đề cấp bách ở trong nước. Dự thảo kế hoạch đã đề xuất 05 nhóm quan điểm, các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể phân kỳ theo 02 giai đoạn đến 2025 và đến 2030, 16 chỉ tiêu cụ thể; 05 chủ đề, 15 nhóm nhiệm vụ và 45 hoạt động gồm: Nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện KTTH; xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện KTTH; hỗ trợ thúc đẩy áp dụng KTTH trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; quản lý chất thải để thực hiện KTTH; tăng cường liên kết, hợp tác, giám sát, đánh giá thực hiện KTTH.
Để hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, Việt Nam phải giải quyết nhiều thách thức về thể chế, hạ tầng, công nghệ và văn hóa để mỗi người dân, doanh nghiệp phải thực sự xem chất thải là tài nguyên, sẵn sàng nói không với việc sản xuất, sử dụng các sản phẩm gây hại cho môi trường. Trong đó, trước mắt ưu tiên sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình sản xuất, kinh doanh áp dụng KTTH; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa bền vững trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, tiến tới hình thành xã hội tuần hoàn.
Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong quản lý chất thải ở Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ TN&MT, đến nay, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam được thu gom xử lý tại khu vực nội thành của các đô thị trung bình đạt khoảng 96,28% (tăng 11,28% so với năm 2016). Khu vực nông thôn đạt khoảng 66% (tăng 16% so với năm 2016); trong đó tỷ lệ chôn lấp khoảng 70%. Hiện trên cả nước có khoảng 400 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, 37 dây chuyền sản xuất phân compost (phân hữu cơ) tập trung, trên 900 bãi chôn lấp, trong đó có nhiều bãi chôn lấp không hợp vệ sinh.
Để đạt được các mục tiêu Theo Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 trong đó ưu tiên thực hiện KTTH trong quản lý chất thải rắn, đặc biệt tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp cụ thể như:
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ cho phát triển nền KTTH. Theo hướng hoàn thiện các quy định về trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương với nhóm các nước tiên tiến trong khu vực. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân, doanh nghiệp tham gia thực hiện.
Thứ hai, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới. Quy định lộ trình thay thế các nhiên liệu, sản phẩm sử dụng nguyên liệu nguy hại, sản phẩm sử dụng một lần bằng các nhiên liệu, nguyên liệu thân thiện với môi trường, sản phẩm sử dụng nhiều lần, kéo dài thời gian sử dụng hữu ích của sản phẩm.
Thứ ba, điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; kiểm soát, thu hút có chọn lọc dự án đầu tư trên cơ sở xem xét các yếu tố về quy mô sản xuất, công nghệ sản xuất, kỹ thuật môi trường và vị trí thực hiện dự án. Xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải.
Thứ tư, thực hiện kinh tế tuần hoàn cần gắn liền với phát triển công nghệ, kinh tế số và Cách mạng công nghiệp 4.0. Áp dụng các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến trong xử lý, tái chế chất thải.
Thứ năm, để mở rộng nền kinh tế tuần hoàn, các nhà sản xuất cần phải xác định rõ đâu là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp. Thay vì sản xuất sản phẩm càng nhanh, càng rẻ càng tốt, thì độ bền của sản phẩm và quy trình sản xuất bền vững mới là yếu tố then chốt. Sản phẩm cần được thiết kế sao cho dễ dàng tái chế nếu muốn chúng không phải kết thúc số phận ở các bãi chôn rác.
Thứ sáu, xây dựng Chiến lược truyền thông về kinh tế tuần hoàn nhằm nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất và công chúng về trách nhiệm của họ đối với các sản phẩm trong suốt vòng đời của chúng. Cần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân về việc phân loại rác thải tại nguồn, tạo điều kiện cho công tác thu gom, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Kinh tế tuần hoàn là vấn đề mới, để thực hiện được tiến trình chuyển đổi một cách toàn diện đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các chính phủ, các tổ chức, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, người dân. Việc cụ thể hóa nhiệm vụ xây dựng lộ trình thực hiện KTTH trong Luật BVMT, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã giao Bộ TN&MT xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH.
Theo Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam ban hành theo Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ, phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và góp phần hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu:
Đến năm 2025, các dự án KTTH bước đầu đi vào thực hiện; phát huy hiệu quả kinh tế, xã hội, công nghệ và môi trường; đóng góp vào phục hồi các tài nguyên tái tạo được, giảm tiêu hao năng lượng, tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp, tỉ lệ che phủ rừng, tăng cường tỉ lệ tái chế rác thải, tăng cường tỉ lệ nội địa hóa của các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và công nghiệp xuất khẩu; tái sử dụng, tái chế, xử lí 85% lượng chất thải nhựa phát sinh; giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương so với giai đoạn trước đây; giảm dần mức sản xuất và sử dụng túi ni lông khó phân hủy và sản phẩm nhựa dùng một lần trong sinh hoạt.
Đến năm 2030, các dự án KTTH trở thành một động lực chủ yếu trong giảm tiêu hao năng lượng sơ cấp, có năng lực tự chủ phần lớn hoặc toàn bộ nhu cầu năng lượng dựa trên năng lượng tái tạo và trong tăng cường tỉ lệ che phủ rừng. Tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lí đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn thông qua các mô hình KTTH đạt 50%; 100% rác thải hữu cơ ở đô thị và 70% rác thải hữu cơ ở nông thôn được tái chế; không làm phát sinh việc chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt từ các mô hình KTTH ở đô thị; tối đa hóa tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lí đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định ở các khu đô thị; giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% vào năm 2030 so với năm 2014, phát thải ròng về “0” vào năm 2050.
TS. NGUYỄN ĐÌNH ĐÁP
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 4 năm 2024