Bài 1: Bản đồ cảnh báo lũ quét và nguy cơ sạt lở đất- Công cụ thiết yếu còn manh mún, dàn trải
01/11/2024TN&MTBản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở là một công cụ thiết yếu trong bối cảnh Việt Nam ngày càng đối mặt với các hiện tượng thời tiết cực đoan. Việc áp dụng bản đồ này không chỉ giúp giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản mà còn góp phần vào công tác quy hoạch và phát triển bền vững. Chỉ khi có sự hợp tác và ứng dụng công nghệ hợp lý, chúng ta mới có thể vượt qua những thách thức khi mùa mưa lũ đến.
Những tháng đầu năm 2024, cơn bão số 3 đã đổ bộ vào các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, cơn bão đã cướp đi biết bao sinh mạng, tài sản,…do trượt lở đất đá, nhiều ngôi làng bị vùi lấp, một số tuyến đường bị đứt gãy,…
Chỉ trong thời gian ngắn tại các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng,… hàng trăm vụ sạt lở đã diễn ra. Tính đến ngày 12/09/2024 đã ghi nhận hơn 330 người chết và mất tích do sạt lở, lũ quét gây ra, 2 ngôi làng, hàng chục ngôi nhà và nhiều diện tích hoa màu bị vùi lấp, những con đường huyết mạch bị hư hại khiến cho các vùng ảnh hưởng bị cô lập, giao thông tắc nghẽn.
Vậy trước những bất thường của thiên nhiên, con người sẽ phải thích ứng và các cơ quan chuyên môn dự báo như thế nào, nghiên cứu, sử dụng công nghệ ra sao để giảm thiểu những thiệt hại cho người dân đang vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ và rất nhiều trăn trở?!.
Bản đồ cảnh báo - Công cụ hỗ trợ đắc lực cảnh báo thiên tai
Việc xây dựng và áp dụng bản đồ cảnh báo nguy cơ sạt lở không còn chỉ là nhu cầu, mà đã trở thành một giải pháp cấp thiết. Đây là công cụ giúp các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và người dân nhận diện được những khu vực có nguy cơ sạt lở cao, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu thiệt hại.
Bản đồ phải tổng hợp được các dữ liệu địa chất, khí hậu, lượng mưa và địa hình từ đó phân tích và nhận định các vùng nguy cơ. Qua các thuật toán phân tích, bản đồ phải phân chia mức độ rủi ro theo từng khu vực. Các khu vực có nguy cơ sạt lở sẽ được biểu diễn dưới dạng các màu sắc, từ xanh lá cây (nguy cơ thấp) đỏ (nguy cơ cao), tím (đặc biệt nguy hiểm) và quan trọng phải là bản đồ trực tuyến và thông tin được cập nhật liên tục theo thời gian thực. Có thể tích hợp nhiều lớp bản đồ hiển thị được nhiều thông tin khác nhau.
Đã có bản đồ cảnh báo nhưng manh mún, dàn trải
Thống kê sơ bộ hàng năm, nước ta xảy ra khoảng 10 - 15 trận lũ quét và sạt lở đất. Trong hơn hai mươi năm qua, thiên tai ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng tăng lên đáng kể, đặc biệt là lũ quét và sạt lở đất. Lũ quét và sạt lở đất là những loại thiên tai chính thường gây ra thương vong và thiệt hại về tài sản ở các tỉnh miền núi.
Tuy nhiên, bản đồ rủi ro lũ quét và sạt lở đất chưa chỉ ra vị trí và thời gian cụ thể xảy ra thiên tai. Một số mô hình giám sát và cảnh báo thí điểm dựa trên thông tin về lượng mưa và mực nước sông chỉ phù hợp với lũ quét ở lưu vực sông. Trong khi lũ quét liên quan đến dòng chảy bùn đất xảy ra ở thượng nguồn lưu vực ở các vùng núi; đây là mối nguy hiểm phổ biến thường gây ra thiệt hại nghiêm trọng, chưa được nghiên cứu và áp dụng các hệ thống giám sát và cảnh báo sớm như vậy.
Lũ quét và sạt lở đất là 2 loại thiên tai chính gây ra thiệt hại nhiều nhất về người và tài sản ở các tỉnh miền núi. Hiện tại, bản đồ rủi ro lũ quét và sạt lở đất chưa cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và thời gian cụ thể xảy ra thiên tai, gây ra khó khăn trong việc quản lý và ứng phó. Các mô hình giám sát và cảnh báo hiện có chủ yếu dựa vào dữ liệu về lượng mưa và mực nước sông, nhưng chúng chỉ phù hợp với các lưu vực sông, không đáp ứng được các tình huống lũ quét và sạt lở đất xảy ra ở các vùng núi cao nơi có dòng chảy bùn đất.
Theo thông tin từ Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, hiện nay, tại một số địa phương như: Hà Giang, Lào Cai, Sơn La và Quảng Nam đã hoàn thành các bản đồ chi tiết với tỷ lệ 1:10.000, cho phép xác định khu vực, địa điểm có nguy cơ lũ quét và sạt lở đất đến từng cấp xã. Chẳng hạn, các huyện Mèo Vạc và Quản Bạ (Hà Giang), Sa Pa và Bát Xát (Lào Cai) cũng như các huyện Nam Trà My và Bắc Trà My (Quảng Nam) đã có bản đồ phân vùng nguy cơ chi tiết. Điều này giúp chính quyền và người dân chủ động theo dõi, phòng ngừa thiên tai. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương khác, quá trình lập bản đồ chi tiết vẫn chưa hoàn thiện. Điều này dẫn đến sự không đồng đều trong dự báo và phòng ngừa thiên tai, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả ứng phó thiên tai ở các địa phương.
Theo GS.TS Đỗ Minh Đức, Khoa Địa chất, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, hiện tại ở cấp địa phương, gần như tiện ai nấy làm, phụ thuộc vào chủ trương hoặc dự án của chính địa phương đó.
Bên cạnh đó, thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn ở trung ương cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ở địa phương. Ở cấp trung ương, một số chuyên gia địa chất đã chia sẻ, hiện nay việc lập bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất đang do nhiều cơ quan khác nhau thực hiện như Cục Địa chất (Bộ TN&MT), Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và cả Tổng cục Khí tượng Thủy văn. Mỗi cơ quan lại sử dụng phương pháp và công nghệ khác nhau để xác định bản đồ sạt lở, lũ quét. Kết quả, những bản đồ hiện nay thường rời rạc, không bao phủ được đầy đủ các nguy cơ, dẫn đến khả năng dự báo thiếu chính xác các hiện tượng lũ quét và sạt lở đất.
Cần tập trung một cơ quan đầu mối về xây dựng và quản lý bản đồ
GS.TS Đỗ Minh Đức cho biết, để tiếp tục hoàn thiện năng lực cảnh báo và phòng ngừa nguy cơ lũ quét, sạt lở đất ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1262/QĐ-TTg năm 2023, phê duyệt Đề án "Cảnh báo sớm sạt lở đất và lũ quét tại khu vực miền núi và trung du Việt Nam". Mục tiêu của đề án này nhằm hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất cho 37 tỉnh ở miền núi và trung du hiện nay.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia địa chất, Quyết định 1262/QĐ-TTg vẫn giao cho nhiều cơ quan cùng thực hiện đề án này. Cục Địa chất và Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản sẽ chịu trách nhiệm điều tra và lập bản đồ phân vùng nguy cơ; Tổng cục Khí tượng - thủy văn sẽ cung cấp các dữ liệu về khí tượng thủy văn nhằm hỗ trợ cảnh báo sớm.
Đề án đã kêu gọi hợp tác quốc tế để áp dụng công nghệ tiên tiến từ các nước khác, nhằm nâng cao khả năng dự báo và cảnh báo thiên tai. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại như viễn thám và dữ liệu thời gian thực sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng dự báo chính xác hơn trong thời gian tới.
Cũng theo các chuyên gia về địa chất, việc có một bản đồ chung và thống nhất cho cả nước và chi tiết đến từng thôn, xã là rất cần thiết trong bối cảnh thiên tai khắc nghiệt đang xảy ra hiện nay. Dựa trên bản đồ chi tiết này, chính quyền các địa phương mới có căn cứ để di dời, sắp xếp dân cư, triển khai nhiệm vụ phòng chống thiên tai; đồng thời làm cơ sở để xây dựng các bản đồ quy hoạch khác liên quan, như quy hoạch khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, điện…) một cách lâu dài, ổn định.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, để dự án lớn này thực sự mang lại hiệu quả, PGS,TS. Tạ Đức Thịnh, Chủ tịch Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam, cũng như một số chuyên gia địa chất đã đưa ra đề nghị, cần một cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về xây dựng và quản lý bản đồ các khu vực có nguy cơ thiên tai của quốc gia, nhằm tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý.
Theo đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng Thủy văn quốc gia, việc cảnh báo sạt lở và lũ quét lâu nay chỉ dựa trên chỉ số lượng mưa, còn các chuyên gia khí tượng không nắm được thực tế ở khu vực mưa lớn tại thời điểm đó ra sao (từ thực trạng rừng, độ dốc, cấu tạo địa chất đến mật độ công trình xây dựng, dòng chảy và vật cản…). Do đó, để đảm bảo hiệu quả và đồng bộ trong hệ thống cảnh báo lũ quét và sạt lở đất tại Việt Nam, cần phải có một chiến lược rõ ràng để hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo quốc gia.
Bài 2: Cần xây dựng bộ cơ sở dữ liệu, hệ thống bản đồ các tỷ lệ chi tiết, hiện đại để chủ động ứng phó thiên tai bất thường
Sỹ Tùng