Việt Nam đã đưa bảo tồn đa dạng sinh học là một vấn đề quốc gia
20/05/2024TN&MTVới mục tiêu bảo tồn, phát triển bền vững nguồn tài nguyên, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, thời gian qua Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đa dạng sinh học; lập quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước,... Ðến nay, chúng ta đã thành lập được 173 khu bảo tồn.
ảnh minh họa
Việt Nam, là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có sự phong phú và đa dạng về các nguồn gen quý, hiếm. Đến nay, nước ta đã thành lập được 173 khu bảo tồn, trong đó gồm 33 vườn quốc gia; 66 khu dự trữ thiên nhiên; 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; 56 khu bảo vệ cảnh quan. Cả nước cũng có 9 khu đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới; 23 tỉnh phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, thành phố...
Bảo tồn đa dạng sinh học, cần chung tay của cả xã hội
Ở nước ta, bảo tồn đa dạng sinh học có thể tính từ khi Chính phủ thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương (1962), mở đầu cho một hệ thống vườn quốc gia và các rừng đặc dụng ở Việt Nam. Sự hình thành nên hệ thống pháp luật liên quan đến đa dạng sinh học về sau khẳng định hệ thống chính trị của Việt Nam đã đưa bảo tồn đa dạng sinh học là một vấn đề quốc gia và gắn liền nó với sự phát triển kinh tế.
Phá rừng làm mất cân bằng sinh thái, đe dọa sự đa dạng sinh học
Tuy nhiên trong bối cảnh phát triển như hiện nay, bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, rất cần có sự chung tay của cả xã hội.
Trước tiên là thách thức trong việc giữ ổn định hệ sinh thái hiện có để đảm bảo điều kiện tồn tại và phát triển của các loài sinh vật. Mặc dù, Việt Nam đã công bố Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng và các khu bảo tồn biển để bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 45/QĐ-TTg ngày 8/1/2014). Tuy nhiên, có thể thấy diện tích bảo tồn của các khu vực được bảo vệ không thực sự đủ lớn để đảm bảo cho nhiều loài động vật có kích thước lớn như voi, hổ.
Bên cạnh đó, sự tác động do biến đổi khí hậu cũng đe dọa đa dạng sinh học của Việt Nam. Ước tính có ít nhất 38,9% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 16,8% diện tích Đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập nếu nước biển dâng lên 100 cm. Các hệ sinh thái ven biển ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng. Rõ ràng đây là một thách thức không nhỏ và cần có thêm các nghiên cứu liên quan để từ đó kịp thời đưa ra được các giải pháp thích ứng.
Thách thức tiếp theo là ổn định được môi trường trong bối cảnh phát triển kinh tế nhanh. Việt Nam được đánh giá có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trong khu vực và trên thế giới, bình quân 6,53%/năm trong giai đoạn từ năm 2000-2017 (số liệu của Tổng cục Thống kê). Tuy vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, tình trạng ô nhiễm ngày một gia tăng, đe dọa môi trường sống của nhiều loài động, thực vật, đặc biệt nghiêm trọng đối với các thủy vực.
Bên cạnh đó, tốc độ phát triển nhanh cũng kéo theo tốc độ chuyển đổi đất và mở rộng các đô thị, đã phần nào làm giảm diện tích các sinh cảnh tự nhiên, làm suy giảm không gian sống của các loài động, thực vật hoang dã. Thêm nữa, sự hình thành nên hệ thống cơ sở giao thông và hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế đã làm gia tăng khả năng cách ly giữa các khu bảo tồn. Rõ ràng áp lực phát triển kinh tế và áp lực bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường đòi hỏi các quốc gia phải thay đổi cách tiếp cận trong phát triển kinh tế, định hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững, và có thể thấy rằng Việt Nam cũng không thể tránh khỏi xu thế đó.
Thách thức trong nâng cao nhận thức của cộng đồng. Các chiến dịch nâng cao nhận thức là một phần quan trọng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Trong những năm gần đây, công tác tăng cường nhận thức cho người dân sinh sống xung quanh các khu rừng đặc dụng (Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên) đã được quan tâm. Nhưng trình độ dân trí và mức sống của người dân trong các khu vực này là một trở ngại lớn trong việc tiếp nhận kiến thức. Bên cạnh đó, nhận thức liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng chưa được chú trọng ở khu vực đô thị, trong khi tiềm lực xã hội huy động cho công tác này tập trung chủ yếu ở đây.
Thách thức trong việc thực thi các luật liên quan về đa dạng sinh học. Một điều thuận lợi là hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến các loài quý hiếm và ưu tiên bảo tồn đã được hình thành, bao gồm cả danh sách loài và hình thức xử phạt. Tuy nhiên, hệ thống luật và chính sách này lại thiếu các hướng dẫn thực thi, còn có sự chồng chéo về trách nhiệm giữa các chính sách và luật trong khi thiếu sự giải thích chi tiết, đã dẫn đến tình trạng xung đột giữa các văn bản pháp luật, gây khó khăn trong quá trình thực thi. Do đó, trong thời gian tới, các dự án hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp luật và chính sách liên quan đến đa dạng sinh học của Việt Nam nên là một trong những ưu tiên của quốc gia.
Thúc đẩy lối sống hài hoà với thiên nhiên
Để hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị các Bộ, ngành, địa phương tăng cường truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học và các giá trị đa dạng sinh học trong chiến lược phát triển bền vững của quốc gia; lồng ghép nội dung bảo tồn đa dạng sinh học vào các chương trình giáo dục, đồng thời thúc đẩy lối sống hài hoà với thiên nhiên.
Các cơ quan cần tiếp tục triển khai hiệu quả Chiến lược quốc gia về Đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn 2050, đóng góp vào thực hiện các mục tiêu của Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh - Montreal (GBF) được thông qua tại Hội nghị COP15; phổ biến, hướng dẫn, thực hiện các quy hoạch, chương trình, kế hoạch, chỉ thị trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Đồng thời, tăng cường các hoạt động khẩn cấp ngăn chặn tình trạng khai thác quá mức và buôn bán trái phép các loài động vật, thực vật hoang dã, bảo vệ và tôn trọng các phong tục tập quán bền vững của người dân địa phương sống tại các khu vực dễ bị tổn thương như các Khu bảo tồn, Vườn quốc gia và các khu vực được công nhận là Di sản thiên nhiên.
Giảm ô nhiễm và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học
Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu các đơn vị, địa phương có giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu sự xuất hiện và tác động của các loài ngoại lai xâm hại đối với đa dạng sinh học thông qua các biện pháp kiểm soát, tăng cường quản lý con đường du nhập hoặc diệt trừ các loài ngoại lai xâm hại.
Lâu dài, cần nghiên cứu và áp dụng các giải pháp giảm ô nhiễm và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học thông qua các giải pháp như giảm thiểu phát thải, ngăn chặn và giảm rác thải nhựa, quản lý chặt chẽ thuốc trừ sâu và hoá chất dùng trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp, quản lý dịch bệnh, thâm canh bền vững,… Đồng thời, lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học vào các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các Bộ, ngành, địa phương để đảm bảo sự công bằng, toàn diện và đồng bộ trong quá trình ra quyết định có liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở dữ liệu và tăng cường năng lực về điều tra, kiểm kê, quan trắc, giám sát các thông tin, dữ liệu về đa dạng sinh học. Áp dụng các giải pháp tiên tiến về khoa học công nghệ trong giám sát đa dạng sinh học, phát triển các giải pháp đổi mới nhằm cải thiện việc bảo tồn cũng như sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
Thúc đẩy và thiết lập mối quan hệ đối tác với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm vận động sự ủng hộ, hỗ trợ về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học là một giải pháp quan trọng.
Phát hiện, đề xuất, tôn vinh những cá nhân, tập thể, cộng đồng có những mô hình, hoạt động, sáng kiến thiết thực và hiệu quả trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học có tác dụng tích cực trong khuyến khích, động viên mọi người tham gia bảo tồn đa dạng sinh học.
Đa dạng sinh học là nền tảng của mọi sự sống trên Trái đất
Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đề ra nhiều khẩu hiệu hưởng ứng thông điệp Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 2024 như: "Đa dạng sinh học là nền tảng của mọi sự sống trên Trái đất", "Đa dạng sinh học - Giá trị cuộc sống từ thiên nhiên", "Bảo vệ muôn loài, bảo vệ cuộc sống", "Hợp tác xuyên biên giới vì sự sống trên Trái đất", "Bảo tồn thiên nhiên là tiền đề của phát triển bền vững"…
ảnh minh họa
Trong nỗ lực thực hiện các mục tiêu đầy tham vọng trong GBF, thời gian qua, Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hành động khác nhau, bao gồm hoàn thiện hành lang pháp lý để hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia, xác định các đối tượng cần phải ưu tiên bảo vệ, bảo tồn từ nay tới 2030; Vấn đề về bảo tồn các loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên bảo vệ; kiểm soát các loài ngoại lai xâm hại; xây dựng cơ sở dữ liệu quan trắc đa dạng sinh học...
Đồng thời, Việt Nam cũng quan tâm tới xây dựng năng lực cho cán bộ; nâng cao nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học; khởi xướng những vấn đề liên quan đến lồng ghép đa dạng sinh học trong các ngành, lĩnh vực, bao gồm gắn bảo tồn đa dạng sinh học với du lịch dựa vào thiên nhiên; hoặc những dự án, nhiệm vụ áp dụng các sáng kiến giải pháp dựa vào thiên nhiên vừa bảo tồn đa dạng sinh học, vừa thích ứng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu; tiếp cận dựa vào hệ sinh thái...
Đến năm 2030, phục hồi được ít nhất 20% diện tích hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái
Bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học là một trong 3 trọng tâm của Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học (DDSH) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 mà Thủ tướng vừa phê duyệt. Mục tiêu đến năm 2030, chúng ta phục hồi được ít nhất 20% diện tích hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái.
Để thực hiện việc bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học, Việt Nam xác định giải pháp lớn nhằm quản lý hiệu quả hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn; Củng cố và mở rộng các khu vực tự nhiên có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế và phục hồi hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái..
Năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ Dự thảo "Quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050" và Dự thảo "Chương trình quốc gia về bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050". Các cơ quan chuyên môn cũng đang gấp rút hoàn thiện, sửa đổi những nội dung liên quan tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT về hướng dẫn chi tiết và thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; trong đó có nội dung về đánh giá tác động đa dạng sinh học, bồi hoàn đa dạng sinh học.
Trong năm 2024, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học sẽ tổ chức đánh giá 15 năm thực hiện Luật Đa dạng sinh học, tạo tiền đề cho việc đề xuất, sửa đổi Luật Đa dạng sinh học năm 2008 theo hướng bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước phù hợp với điều kiện thực tiễn, bối cảnh trong nước và quốc tế. Đồng thời, tiếp tục rà soát, đề xuất hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và biện pháp quản lý, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, hình thành cơ chế quản lý các khu bảo vệ ngoài khu bảo tồn.
Với việc chủ động tham gia vào các công ước quốc tế, cùng sự nỗ lực của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành, chính quyền địa phương, Việt Nam đã và đang từng bước ngăn chặn đà suy giảm đa dạng sinh học, hướng tới bảo tồn thiên nhiên, phục hồi các hệ sinh thái tại các địa phương hiệu quả và bền vững.
Xuân Thành