Vùng duyên hải Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thích ứng biến đổi khí hậu

21/04/2024

TN&MTVùng duyên hải Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ bao gồm 11 tỉnh kéo dài từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế là vùng có tiềm năng cho phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển. Tuy nhiên, trong bối cảnh gia tăng biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp, nhất là trong nuôi trồng thủy sản ven biển của vùng đã, đang chịu nhiều tác động trực tiếp và gián tiếp thông qua nguồn nước, môi trường nuôi, dịch bệnh,… Trước thực trạng đó, địa phương, người dân đã, đang áp dụng hiệu quả một số mô hình có khả năng thích ứng biến đổi khí hậu.

Vùng duyên hải Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thích ứng biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu tác động đến nông nghiệp nuôi trồng thủy sản ven biển vùng

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và được xem là một trong những thách thức lớn nhất đối với vấn đề an ninh lương thực toàn cầu. Nuôi trồng thủy sản (NTTS) ven biển vùng Duyên hải Bắc và Bắc Trung Bộ (BB-BTB), với sự đa dạng về các hệ thống canh tác, phương thức và đối tượng nuôi, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo sinh kế và thu nhập, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tê - xã hội cho các cộng đồng ven biển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, NTTS khu vực duyên hải BB-BTB thường xuyên phải đối mặt với các vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và rủi ro liên quan đến gia tăng BĐKH.

Duyên hải BB-BTB là một trong những khu vực chịu tác động nặng nề bởi BĐKH, đặc biệt là sự tăng lên của nhiệt độ và thay đổi chế độ mưa. Nhiệt độ tối đa đã bắt đầu vượt quá ngưỡng giới hạn tối ưu của một số loài nuôi làm giảm tỷ lệ sống và sinh trưởng của các đối tượng nuôi này. Sự thay đổi chế độ mưa với lượng mưa tăng cao vào mùa mưa gây ngập lụt nghiêm trọng vùng nuôi, song giảm mạnh vào mùa khô dẫn đến khó khăn trong việc duy trì cấp nước cho các hoạt động NTTS. Gia tăng các hiện tượng cực đoan (bão, áp thấp nhiệt đới) cũng là những thách thức không nhỏ, đe dọa đến tính bền vững của nghề NTTS ven biển khu vực duyên hải BB-BTB. 

Áp dụng tiếp cận NTTS thích ứng thông minh với BĐKH (CSAq) được xem là một trong những giải pháp thích ứng hữu hiệu với BĐKH, hướng tới đạt được đồng thời ba mục tiêu phát triển:Tăng cường an ninh lương thực bền vững thông qua tăng năng suất/sản lượng canh tác và thu nhập của người dân; Tăng khả năng thích ứng và phục hồi trước các tác động của BĐKH; Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các thực hành NTTS tốt, giảm thiểu tác động bất lợi đến môi trường. Hiện nay, các mô hình NTTS theo hướng CSAq, đã và đang được áp dụng tại nhiều tinh khu vực duyên hải BB-BTB, bước đầu đã góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế và tính bền vững cho các hệ thống NTTS ven biển. 

Theo PGS.TS. Hoàng Ngọc Khắc, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, sự thay đổi của khí hậu đã và đang gây ra tác động nghiêm trọng đến các hệ sinh thái, các tầng lớp xã hội và các nền kinh tế, tăng sức ép đến sinh kế và các nguồn cung cấp thực phẩm cho con người, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế thủy sản và NTTS. Các nước đang và kém phát triển, phụ thuộc chủ yếu vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp - thủy sản và các vùng ven biển là những nơi chịu tác động nặng nề nhất bởi BĐKH. Với các biểu hiện như sự tăng lên của nhiệt độ và mực nước biển, bất thường về chế độ mưa (cả về tần suất và cường độ) và gia tăng các hiện tượng khí hậu cực đoan (bão, áp thấp nhiệt đới,...) có tác động trực tiếp và/hoặc gián tiếp đến các hệ sinh thái và các hệ thống NTTS, từ đó ảnh hưởng đến sinh kế cộng đồng và các vấn đề kinh tế - xã hội. Hầu hết các nghiên cứu đã cho thấy, BĐKH có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến NTTS thông qua nguồn nước, môi trường nuôi, con giống, dịch bệnh… và qua đó gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng của các vùng NTTS nói chung và NTTS ven biển nói riêng. Các hiện tượng thời tiết bất thường như bão lũ, hạn hán, nắng nóng hoặc giá rét kéo dài có thể tác động tiêu cực đến nguồn nước và sức đề kháng của các đối tượng nuôi, gây bùng phát dịch bệnh.

Bắc Trung Bộ là vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Hàng năm thường xảy ra nhiều thiên tai như bão, lũ, gió lào, hạn hán. Trong những năm gần đây, bão xuất hiện với cường độ mạnh đã tàn phá nhiều cánh rừng ngập mặn cũng như rừng phòng hộ, làm suy thoái hệ sinh thái ven biển và làm ảnh hưởng lớn tới nghề NTTS. Tại Thanh Hóa, thiệt hại do biến đổi thời tiết gây ra đã làm giảm khoảng 75-80% sản lượng thu hoạch trong nuôi thủy sản. Sau những thiệt hại do bão lũ gây ra cho NTTS ven biển, đã đặt ra yêu cầu cần thay đổi lịch mùa vụ, nuôi luân canh, gia cố bờ bao, cơ sở hạ tầng...

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, mỗi năm mực nước biển tại Bắc bộ tăng 2,5mm. Nếu nước biển dâng lên 100 cm thì sẽ có khoảng 8.201.598 ha diện tích đất ven biển vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có nguy cơ bị ngập lụt và xâm nhập mặn. Với sự diễn biến phức tạp của khí hậu, sự thay đổi các dòng chảy của sông, mực nước biển dâng đã và đang gây ra các hiện tượng sạt lở, xói mòn các bờ sông, bờ biển, phá hủy nhiều công trình cơ sở hạ tầng trong đó có hệ thống NTTS ven biển. Tuy nhiên, nước biển dâng cũng là một cơ hội mở rộng diện tích cho phát triển NTTS nước lợ ven biển.

Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết người dân khi được điều tra đều nhận thấy rằng BĐKH đã làm diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản bị thu hẹp, năng suất nuôi trồng thủy sản giảm và chất lượng giống, loài thủy sản giảm. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát thực địa cũng cho thấy các loại hình thiên tai cực đoan cũng diễn biến bất thường tại các địa phương nằm trong vùng nghiên cứu và có những tác động không có lợi đến hoạt động NTTS tại địa phương.

Một số mô hình thích ứng khu vực Bắc bộ và Bắc trung bộ

Trong thực tế sản xuất, người dân nuôi trồng thủy sản ven biển tại khu vực nghiên cứu đã triển khai một số mô hình phát triển nông nghiệp, NTTS có khả năng thích ứng với BĐKH như sau: 

Mô hình thủy sản - rừng: Đây là mô hình nuôi thủy sản (Tôm, cua, ốc..) trong rừng ngập mặn. Ưu điểm của mô hình là nuôi dựa vào thức ăn tự nhiên; Không sử dụng hóa chất, thuốc chữa bệnh; Bảo vệ và duy trì các nguồn tài nguyên môi trường và hệ sinh thái; Giảm phát thải khí nhà kính; Thích ứng BĐKH; Tạo sinh kế bền vững cho người dân ven biển. Mô hình này đang được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương trên cả nước. Nuôi tôm sú trong rừng ngập mặn là mô hình phát triển mạnh trong những năm gần đây, mô hình này được nuôi chủ yếu ở Nam Định, Quảng Ninh, Thái Bình. Với các ưu điểm về đa dạng loài nuôi, chi phí sản xuất thấp, phù hợp với đa số cộng đồng người nuôi quy mô nhỏ, ít sử dụng thức ăn công nghiệp, hóa chất và thuốc kháng sinh, đây có thể là những hệ thống nuôi có tiềm năng ứng phó thông minh với BĐKH.

Mô hình nuôi xen ghép: Đây là mô hình nuôi ghép từ 2 đối tượng trở lên trong cùng diện tích ao nuôi, nhằm tận dụng diện tích mặt nước và dinh dưỡng trong ao. Ví dụ, mô hình nuôi ghép tôm sú với cá chẽm/cá rô phi/sò/rong biển. Các loài nuôi xen ghép đãtận dụng được nguồn dinh dưỡng, thức ăn thừa của tôm; Nâng cao chất lượng nước trong ao nuôi và hạn chế dịch bệnh cho tôm; Ít sử dụng thuốc kháng sinh, tôm lớn nhanh… Giảm chi phí sản xuất; Tăng năng suất trên cùng đơn vị diện tích nuôi và đa dạng hóa sản phẩm. Hình thức nuôi kết hợp tôm, cua với cá rô phi, cá đối, cá dìa, rong câu, cua và một số đối tượng cá nước lợ khác, tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Nam Định, Quảng Ninh, Thái Bình. 

Mô hình nuôi nhuyễn thể bãi triều và trong ao đầm nước lợ

Đây là các mô hình nuôi nhuyễn thể phổ biến ở vùng ven biển như nghêu, sò huyết, vẹm, tu hài, trai ngọc. Mô hình này là minh chứng về NTTS carbon thấp do nhuyễn thể là loài ăn lọc các động thực vật phù du trong tự nhiên ở đáy của chuỗi thức ăn, không tiêu thụ thức ăn công nghiệp. Nhuyễn thể còn có vai trò trong cải thiện chất lượng nước bằng cách lọc bùn cát và chất dinh dưỡng thừa; có thể tổng hợp carbon tạo thành vỏ...

Mô hình nuôi ngao bãi triều có diện tích và sản lượng lớn trong vùng, tập trung ở các tỉnh như: Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa... với khoảng 11.900 ha, chiếm 29% diện tích nuôi nhuyễn thể cả nước. Những năm gần đây, môi trường nuôi tại các bãi triều diễn biến xấu đi, kết hợp với ảnh hưởng của BĐKH và thời tiết diễn biến bất thường nên hệ thống nuôi ngao bãi triều (hệ thống hở) gặp nhiều rủi do về dịch bệnh, ngao chết, mất mùa. Bởi vậy, một số nơi đã bước đầu thử nghiệm ương ngao và nuôi ngao thương phẩm trong hệ thống kín (có thể nuôi đơn canh hoặc xen canh với tôm sú trong ao đầm nước lợ) để nhằm 2 mục đích: kiểm soát môi trường nuôi trước tác động của thay đổi khí hậu, thời tiết và cải tạo môi trường ao nuôi vì ngao là đối tượng ăn lọc. 

Mô hình thủy sản - lúa (xen canh, luân canh): Đây là mô hình nuôi xen hoặc luân canh thủy sản với lúa, ví dụ, cá + lúa, tôm + lúa. Ưu điểm của mô hình là tận dụng được thức ăn/dinh dưỡng tự nhiên; Môi trường nuôi được cải thiện, giảm dịch bệnh; Giảm chi phí thức ăn, thuốc phòng trị bệnh cho thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho lúa; Sản phẩm tôm, lúa có chất lượng, giá trị cao hơn... Ngoài ra, canh tác tôm – lúa giúp hạn chế sử dụng hóa chất độc hại, sử dụng tài nguyên nước hợp lý theo từng thời điểm và mùa trong năm, thích ứng điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí tượng, thủy văn, tạo ra sản phẩm sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phù hợp sản xuất nông nghiệp tốt (GAP); từ đó giúp nâng cao giá trị hàng hóa cho cả tôm và lúa. Mô hình này hiện được thực hành chủ yếu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Mô hình tôm - muối: Đây là mô hình nuôi luân canh tôm vào mùa mưa và sản xuất muối vào mùa nắng trên một đơn vị diện tích. Ưu điểm của mô hình là tận dụng được đất vào mùa mưa khi không có khả năng sản xuất muối; Tận dụng thức ăn tự nhiên (artemia, tảo); Ít bị dịch bệnh; Giảm chi phí thức ăn, hóa chất khử trùng và thuốc phòng trị bệnh; Tăng năng suất và hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích góp phần tăng thu nhập cho nông hộ. Mô hình luân canh tôm muối được đánh giá là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao bởi trên thực tế người dân nuôi tôm chủ yếu vào mùa mưa, còn mùa khô những diện tích này thường để hoang hóa. Ngược lại những tháng mùa khô, chỉ tập trung sản xuất muối, còn lại bỏ hoang gây lãng phí. Tuy nhiên, khi triển khai sản xuất luân canh tôm muối, hiệu quả trên một đơn vị diện tích tăng lên gấp đôi.

Trung tuần tháng 10 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ (vùng BTB&DHTB) đã chủ trì Hội nghị điều phối vùng; đồng chủ trì Hội nghị có Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đã đưa ra những nhận diện, đề xuất có tính mới, đột phá: Tầm nhìn phát triển đến năm 2050, phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển,…Thu hút, kết nối và huy động mọi nguồn lực đầu tư, mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế Vùng, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tập trung phát triển các cụm liên kết ngành kinh tế biển với trọng tâm là liên kết giữa các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển,… Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, công nghiệp công nghệ cao, các công nghệ chủ chốt của cách mạng công nghiệp lần thứ tư để hình thành năng lực sản xuất mới; tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất của khu vực và toàn cầu. Cơ cấu lại nông, lâm nghiệp, khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao. Phát triển các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá kết hợp với quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững gắn với nâng cao thu nhập cho người làm nghề rừng. Phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, đặc hữu có khả năng chống chịu, thích ứng với BĐKH; liên kết theo chuỗi giá trị và có giá trị gia tăng cao; gắn với xây dựng nông thôn mới và phát triển du lịch. Tăng cường hợp tác và liên kết liên tỉnh cho phát triển kinh tế - xã hội như: Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An; Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh; Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình; Nam Phú Yên - Bắc Khánh Hòa. Thúc đẩy các hoạt động liên kết phát triển vùng để quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai, thích ứng hiệu quả với BĐKH, nước biển dâng, xâm nhập mặn.

QUÝ TÂM
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 4 năm 2024

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Thủ tướng: Chống chạy chọt, lợi ích cá nhân trong tinh gọn bộ máy

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy gửi thư chúc mừng ngày truyền thống Ngành Đo đạc và Bản đồ Việt Nam

Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Hội nghị triển khai ‘Kế hoạch định hướng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ’ 

Thông cáo báo chí Chương trình phiên họp thứ 40 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Tài nguyên

Lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Ba thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050

Tỉnh Bình Phước nỗ lực cải thiện công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Tách nguồn thải, bổ cập nước để làm sạch các dòng sông tại Hà Nội

Việt Nam - Phần Lan chia sẻ kinh nghiệm về quản lý bổ cập nước dưới đất

Môi trường

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính

Thực hiện các hiệp định và thoả thuận quốc tế về biến đổi khí hậu

Nông dân Đan Phượng chủ động tham gia xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu và bảo vệ môi trường

Ngăn chặn sản xuất không bảo đảm điều kiện môi trường

Video

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Chuyển đổi năng lượng xanh, hướng tới mục tiêu Net Zero

Dương Kinh (Hải Phòng): Đi tìm lời giải trong việc thu hồi đất tại phường Hòa Nghĩa

Khoa học

Hiệu quả của mô hình phân loại rác thải sinh hoạt và xử lý rác hữu cơ tại nguồn bằng chế phẩm sinh học IMO khu vực nông thôn tỉnh Kiên Giang

Bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản - Ứng dụng kinh tế tuần hoàn và ao tảo mật độ cao HRAP trong nuôi tôm

Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng năm giai đoạn 2021-2023 của huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng 

Khai thác, sử dụng đất cho hoạt động khoáng sản kết hợp đa mục đích: Thực tiễn và một số kiến nghị

Chính sách

Quảng Ngãi kiến nghị hỗ trợ 1.280 tỷ đồng khắc phục hậu quả thiên tai, sạt lở

Từ 1/1/2025, xe ô tô kinh doanh chở trẻ em mầm non, học sinh phải sơn màu vàng đậm

Vi phạm hành chính lĩnh vực khí tượng thủy văn bị phạt tới 100 triệu đồng

Phấn đấu đến 2030, mở rộng diện tích, thành lập mới, quản lý hiệu quả 27 khu bảo tồn biển

Phát triển

Diễn đàn Kinh tế tuần hoàn Việt Nam 2024: TCE góp phần hiện thực Kế hoạch phát triển kinh tế tuần hoàn

Chi nhánh Mỏ tuyển đồng Sin Quyền, Lào Cai - Vimico: Chú trọng bảo vệ môi trường

“Nhà của ông già Noel” bất ngờ xuất hiện tại khu đô thị của nhà sáng lập Ecopark

Công ty Đồng Tả Phời: Vượt khó hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh

Diễn đàn

Tin Gió mùa Đông Bắc tăng cường ngày 13/12: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trời rét đậm, có nơi rét hại

Thời tiết ngày 12/12: Bắc Bộ trời rét, vùng núi rét đậm

Tin mới nhất về Gió mùa Đông Bắc ngày 12/12

Thời tiết ngày 11/12: Miền Bắc chiều tối rét đậm kèm mưa

Kinh tế xanh

Phát triển đô thị xanh theo hướng bền vững

Cam 3T Farm Cao Phong: Mô hình tiêu biểu trong xây dựng thương hiệu nông sản và chuyển đổi số

Diễn đàn Kinh tế tuần hoàn Việt Nam 2024 “Cần ưu tiên 4 con đường chính"

Organic Green Nut - Đậu phụ Quê Mình: Đem nông sản Việt chất lượng cho người Việt