Thách thức trong quy hoạch không gian biển và ven biển
30/10/2021TN&MTQuản lý tổng hợp biển theo không gian đòi hỏi xác lập một cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý biển và giải quyết đồng bộ các quan hệ phát triển khác nhau, trong đó quan hệ giữa các mảng không gian cho phát triển kinh tế biển (KTB) và tổ chức không gian biển hợp lý cho phát triển KTB bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần đi trước một bước. Công cụ cơ bản giúp tổ chức hợp lý không gian biển cho phát triển bền vững là quy hoạch không gian biển (QHKGB).
Ảnh minh họa
Những thách thức, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu, thời gian qua phát triển KTB và bảo tồn tính bền vững của biển Việt Nam còn gặp không ít thách thức, hạn chế. Nếu không hoặc chậm khắc phục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển hiệu quả và bền vững, cũng như khả năng CNH-HĐH các ngành KTB ở Việt Nam:
Một là, nhận thức về vai trò, vị trí của biển và KTB của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ; quy mô KTB còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế.
Hai là, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn manh mún, thiết bị chưa đồng bộ nên hiệu quả sử dụng thấp: Các cảng biển, thiếu hệ thống đường bộ cao tốc chạy dọc ven biển để nối liền các thành phố, khu kinh tế, KCN, sân bay ven biển nhỏ bé thành một hệ thống KTB liên hoàn.
Ba là, hệ thống các cơ sở nghiên cứu KHCN biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... ở ven biển còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. Các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu áp dụng như: QLKG biển, quy hoạch sử dụng biển bao gồm hải đảo và vùng ven biển, giống như QHSDĐ áp dụng trên đất liền. Đặc biệt, chưa chú trọng đến nghiên cứu công nghệ biển tiên tiến.
Bốn là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững do khai thác tự phát, thiếu hoặc không tuân thủ quy hoạch biển, đảo, làm nẩy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải đảo. Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và đầu tư nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu. Còn nghiêng về ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài nguyên biển còn ít được chú trọng, như: Giá trị vị thế của các mảng không gian biển, ven biển và hải đảo; giá trị dịch vụ của các HST; thậm chí các giá trị văn hóa biển. Cách tiếp cận nóng vội trong khai thác tài nguyên biển đang là hiện tượng phổ biến ở các lĩnh vực kinh tế biển: Chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên.
Năm là, môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển, một số khu biển ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng.
Sáu là, ĐDSH biển và nguồn lợi thuỷ hải sản giảm sút. Các HST biển quan trọng bị suy thoái, bị mất habitat và bị thu hẹp diện tích. Các quần đàn có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển, thay đổi tương tác sông-biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất đến 60% nơi cư trú tự nhiên quan trọng. RNM mất khoảng 15.000 ha/năm, khoảng 80% RSH trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao, tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với TCB. Đã có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.
Bảy là, đến nay biển, đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lý theo ngành thông qua các luật pháp, chính sách ngành. Thiếu các luật cơ bản về biển để thực thi hiệu quả công tác QLNN TH&TN về biển, hải đảo. Điều này dẫn đến sự chồng chéo về quản lý giữa các bộ, ngành về biển, chính sách quản lý thiếu đồng bộ, trong các luật hiện có không ít điểm chồng chéo, hiệu lực thi hành thấp. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý còn rất thụ động, chưa làm rõ vấn đề sở hữu/SDĐ ven biển và mặt nước biển cho người dân địa phương ven biển. Công tác kiểm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển,… chậm được triển khai trong lĩnh vực quản lý tài nguyên biển.
Tám là, ngoài thiên tai biển xẩy ra thường xuyên, Việt Nam còn là một trong 5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH&NBD, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Giải pháp để gỡ vướng
Khai thác, sử dụng không gian biển hiệu quả, lâu bền trên cơ sở tăng cường QLTH TN,MT biển. Từ đó làm căn cứ, cơ sở pháp lý để của các bộ, ngành và địa phương có biển xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến việc khai thác, sử dụng không gian biển. Theo đó, phạm vi không gian bao gồm vùng đất ven biển, vùng trời, vùng biển và các hải đảo của Việt Nam. Phạm vi thời gian: Quy hoạch được lập đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện đối với mỗi kỳ quy hoạch là 5 năm. Các sản phẩm cụ thể của quy hoạch không gian biển đó là: Định hướng bố trí sử dụng không gian biển cho các hoạt động trong các vùng đất ven biển, vùng B&HĐ của Việt Nam, xác định các vùng và phân vùng sử dụng không gian biển; lập bản đồ phân vùng không gian biển; xây dựng và đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch; đánh giá môi trường chiến lược của Quy hoạch không gian biển; bản đồ Phân vùng không gian biển quốc gia đến năm 2050: tỷ lệ 1/1.000.000.
Để đạt được các mục tiêu và kết quả dự tính này, theo các chuyên gia, hiện, Việt Nam rất thiếu các “dữ liệu đầu vào” cho việc xây dựng quy hoạch; đặc biệt dữ liệu để tính toán ở mỗi vùng cụ thể, thời điểm nào nên sử dụng vào mục đích gì. Việc này cần phải “định lượng” cụ thể và có tính khoa học, không thể quy hoạch theo “định tính”. Bên cạnh đó, vấn đề về công nghệ cũng là một nguyên nhân hết sức quan trọng như: Cần phải sử dụng phần mềm nào, trên hệ thống nào để có thể nhập cơ sở dữ liệu và cho ra một kết quả có độ chính xác cao nhất cũng là vấn đề rất lúng túng, chưa tìm được công nghệ phù hợp.
Trên thế giới đã có rất nhiều nước xây dựng thành công quy hoạch không gian biển nên vấn đề công nghệ không phải là nhân tố khó khăn. Các chuyên gia thuộc UNESCO đã giúp nhiều nước xây dựng thành công quy hoạch không gian biển có thể đề xuất phần mềm công nghệ trong xử lý các dữ liệu, giúp cho việc xây dựng quy hoạch không gian biển Việt Nam.
Còn về thông tin dữ liệu đầu vào, không phải quốc gia nào xây dựng thành công QHKG biển và quản trị tốt đại dương cũng có đầy đủ cơ sở dữ liệu, mà chỉ cần xác định những cơ sở dữ liệu nào là mấu chốt, quan trọng nhất để đưa vào thực hiện, sau đó sẽ dần hoàn chỉnh. Vấn đề này, phía UNESCO sẽ giúp Việt Nam về mặt mời các chuyên gia và các nhà khoa học tập huấn và gợi ý những vấn đề cần xác định trọng tâm.
Để những hỗ trợ từ phía UNESCO đi vào thực chất và mang lại hiệu quả thiết thực trong việc xây dựng quy hoạch không gian biển Việt Nam, chuyên gia thuộc Chương trình điều phối bộ phận Khoa học tự nhiên của UNESSCO đã đề xuất ý tưởng Chương trình hỗ trợ thực hiện quy hoạch không gian biển cho phía Việt Nam với mục tiêu cụ thể là: Tăng cường năng lực thể chế trong lĩnh vực quản trị biển và QHKG biển; truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về biển và đại dương; đẩy mạnh hợp tác với đối tác tư nhân. Trong đó, nêu rõ 3 kết quả dự kiến quan trọng đạt được: Tăng cường năng lực thể chế về quản trị hải dương và QHKG biển trong nước; thiết lập hệ thống dữ liệu khoa học cho quy hoạch và quản lý biển và ven biển được thành lập; tăng cường năng lực về QHKG biển và nâng cao nhận thức và bảo vệ TNTN biển.
Đối với vấn đề kỹ thuật cụ thể, sẽ hỗ trợ để điều chỉnh các phương pháp, công cụ, hướng dẫn cho quy hoạch biển, ven biển, phù hợp với quy trình lập kế hoạch hiện có. Hỗ trợ phát triển công cụ hỗ trợ ra quyết định để phân tích kịch bản xu hướng thay đổi TN&MT trong bối cảnh tác động của BĐKH, kịch bản về nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên và bảo vệ TNTN, kịch bản cho sự phát triển của ngành liên quan.
Hy vọng rằng, với ý tưởng đề xuất khá cụ thể và sát với thực tiễn khó khăn và hoạt động lập QHKG biển Việt Nam đang vướng mắc, UNESCO cùng các chuyên gia hàng đầu trên thế giới sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng được QHKG biển và quản trị đại dương đạt được mục tiêu mong muốn.
PGS.TS. NGUYỄN CHU HỒI
Trung tâm Nghiên cứu Biển và Hải đảo, Đại học Quốc gia Hà Nội
VŨ LỆ HÀ
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội