Dấu ấn công tác điều tra địa chất xạ hiếm: Ghi nhận ở một Liên đoàn
19/04/2022TN&MTTrong số các nguồn khoáng sản của Việt Nam thì tài nguyên phóng xạ có vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đó cũng là sự nỗ lực không ngừng nghỉ, lòng tâm huyết của biết bao thế hệ nhà quản lý, nghiên cứu khoa học ở Liên đoàn Địa chất Xạ - Hiếm (Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam).
Đo môi trường phóng xạ tại nhà dân ở Yên Bái
Sáng tạo trong nghiên cứu, chú trọng đến ứng dụng
Trong suốt chặng đường hoạt động của mình, Liên đoàn Địa chất Xạ - Hiếm luôn xác định các kết quả nghiên khoa học là một trong những tài liệu rất quan trọng để định hướng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các đề án địa chất, của đơn vị. Ngoài ra, các kết quả đó còn góp phần vào việc xây dựng các Quy định kỹ thuật cũng như các tiêu chuẩn để áp dụng trong ngành. Chẳng hạn, đề án “ khu Pà Lừa - Pà Rồng, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam” là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Liên đoàn, Bộ TN&MT đã giao Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam chủ trì và Liên đoàn là đơn vị thực hiện.
Các kết quả nhiên cứu khoa học được áp dụng từ kết quả nghiên cứu trong giai đoạn 10 năm gần đây có các đề tài: “Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tổng quan tài nguyên, trữ lượng urani ở Việt Nam” năm 2005; “Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học phục vụ công tác đánh giá an toàn đối với hoạt động thăm dò, khai thác quặng phóng xạ vùng Thành Mỹ và đề xuất giải pháp phòng ngừa” năm 2010; “Nghiên cứu xác định hệ số cân bằng phóng xạ, trong cát kết vùng trũng Nông Sơn” năm 2011; “Nghiên cứu xây dựng các mô hình kiểu mỏ urani trong cát kết ở Việt Nam” năm 2013 và 3 chuyên đề nghiên cứu của đề án là: “Xác lập đặc điểm thạch học - tướng đá và điều kiện thành tạo có sự tham gia các nhà khoa học thuộc Viện VSECGEI - Cộng hoà Liên bang Nga”; “Tính toán tài nguyên quặng urani theo tài liệu địa vật lý lỗ khoan” và “Xác lập quy luật biến đổi các thông số tính trữ lượng và xác định trữ lượng quặng urani Pà Lừa - Pà Rồng bằng phần mềm surpac”.
Trong suốt 10 năm thi công đề án thăm dò quặng urani, các mô hình kiểu mỏ urani trong cát kết đã được áp dụng để định hướng trong việc bố trí các công trình thăm dò, đặc biệt là các công trình khoan máy cho phù hợp, đảm bảo tiết kiệm khối lượng, thi công đúng đối tượng và đạt hiệu quả của công tác thăm dò. Qua kết quả chuyên đề: “Xác lập đặc điểm thạch học - tướng đá và điều kiện thành tạo quặng urani khu Pà Lừa - Pà Rồng”, các nhà khoa học Việt Nam và các chuyên gia thuộc Viện VSECGEI - Cộng hoà Liên bang Nga đã chỉ ra, sự tồn tại của các thân quặng dưới sâu phần giáp với móng granit là có triển vọng. Ngoài ra, còn khẳng định bồn trũng Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam có triển vọng quặng urani của Việt Nam.
Song song với công tác thi công thực địa của đề án, công tác nghiên cứu thành phần vật chất quặng luôn được quan tâm để làm rõ về tính khả tuyển cũng như hiệu quả kinh tế khẳng định giá trị mỏ urani. Các vấn đề này được thực hiện trong các đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng các quy trình phân tích các nhóm nguyên tố urani, thori và đất hiếm trong đất, đá, nước trên hệ thiết bị ICP-MS Agilent 7700x” và “Kết quả xử lý, thử nghiệm mẫu công nghệ của Viện Công nghệ Xạ - Hiếm”. Các quy trình phân tích mẫu urani đã công nhận chứng chỉ VLAS331 (ISO-17025: 2010), đảm bảo chất lượng phân tích mẫu phản ánh đúng bản chất tự nhiên của khoáng sản. Kết quả thử nghiệm mẫu công nghệ urani đã đưa ra hệ số thu hồi và urani đạt thương phẩm.
Trong quá trình hoạt động chuyên môn của mình, tập thể Liên đoàn đã nỗ lực không ngừng nghỉ, tận dụng lợi thế, khắc phục khó khăn trong công tác nghiên cứu khoa học. Liên đoàn luôn được sự quan tâm và ủng hộ của các cấp lãnh đạo cũng như sự chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, lãnh đạo Liên đoàn. Thông qua việc nghiên cứu khoa học, các kỹ sư trẻ sẽ tự nâng cao trình độ chuyên môn, góp phần quan trọng vào việc xây dựng đội kỹ thuật lớn mạnh về chất cho Liên đoàn. Bên cạnh đó, Liên đoàn có lực lượng lao động trẻ tương đối dồi dào, với gần 100 cán bộ kỹ thuật là các đoàn viên thanh niên, lực lượng này nắm bắt rất nhanh các vấn đề mới, có sức khỏe và say mê nghiên cứu khoa học. Điều này cũng tạo thuận lợi cho công tác nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, nguồn tài liệu nghiên cứu phong phú cũng là sự thuận lợi. Hiện nay, cùng với các nguồn tài liệu từ sách, báo, internet,... với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc tìm kiếm các nguồn tài liệu từ các máy tính ngày càng dễ dàng hơn, số lượng tài liệu ngày càng phong phú hơn. Cùng với đó, các đề tài nghiên cứu khoa học phù với các lĩnh vực về địa chất khoáng sản, quan trắc môi trường, môi trường khoáng sản độc hại, phân tích mẫu mà Liên đoàn đang thực hiện.
Tuy nhiên, Liên đoàn vẫn còn nhiều khó khăn, bởi đây là một lĩnh vực đặc thù, khó khăn trong nghiên cứu và thực tế nên các bạn trẻ còn nhiều bỡ ngỡ trong công tác nghiên cứu khoa học, chưa có sự chủ động trong việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học từ đầu đến cuối. Lực lượng trẻ cũng chưa có sự chủ động nhất định trong việc đưa ra các ý tưởng để nghiên cứu trong các đề tài. Hơn nữa, thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn bị hạn chế bởi do công tác tại các đề án, dự án. Đặc biệt, một số số liệu quan trọng như kết quả phân tích cần độ chính xác cao (chẳng hạn như tuổi đồng vị,…) trong nước ta còn hạn chế, hầu hết phải gửi sang nước ngoài, do vậy ảnh hưởng hưởng đến tiến độ của việc nghiên cứu khoa học.
Phân tích các nhân phóng xạ tự nhiên trên mẫu môi trường bằng thiết bị ORTEC-GEM 30
Để tiếp tục đóng góp nhiều hơn
Trong thời gian tới, Liên đoàn sẽ tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng trong công tác nghiên cứu khoa học về lĩnh vực khoáng sản phóng xạ và đất hiếm, đặc biệt là khoáng sản Thori ít được đề cập đến. Đồng thời, các khu vực có triển vọng về quặng urani đã được phát hiện trước đây để thực hiện các chuyên đề nghiên cứu sâu để làm rõ tiềm năng của chúng.
Liên đoàn sẽ đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại để phục vụ công tác nghiên cứu ngoài trời, cũng như phân tích số liệu trong phòng. Ngoài ra, tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, tiếp thu các nghiên cứu mới cũng như đào tạo trình độ chuyên môn cho các nhà khoa học trẻ.
Hiện nay, lực lượng công nhân khoan máy và đào hào ngày một thiếu hụt, nếu không có lực lượng bổ sung thì rất khó khăn trong việc thi công các công trình khoan, khai đào. Lãnh đạo Liên đoàn sẽ xây dựng phương án bổ sung, tuyển dụng nhân lực kỹ thuật công trình hoặc tự đào tạo từ lao động tự do bằng hình thức hỗ trợ kinh phí đào tạo, rất mong nhận được sự ủng hộ của lãnh đạo cấp trên. Bên cạnh đó, do xu hướng của các doanh nghiệp khai khoáng, dịch vụ về khai khoáng giảm, nguồn vốn cấp cho điều tra cơ bản địa chất khoáng sản giảm dần, nên Liên đoàn mong muốn được Tổng cục và Bộ TN&MT quan tâm để khắc phục những khó khăn này. Mặt khác, Liên đoàn thường xuyên rà soát để sửa đổi bổ sung các quy chế, quy định nội bộ, nhất là quy chế tuyển dụng, đào tạo; quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý các đề án.
TRỊNH ĐÌNH HUẤN
Liên đoàn trưởng Liên đoàn Địa chất Xạ – Hiếm