Chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển theo hướng chuyển từ “nâu” sang “xanh”
27/12/2021TN&MTĐể Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn, nước ta đã có nhiều quyết sách quan trọng để thúc đẩy việc phát triển bền vững kinh tế biển theo tinh thần của Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Tuy nhiên, đứng trước sự biến động không ngừng của xã hội và ảnh hưởng của đại dịch Covid -19 tới nền kinh tế nói chung, kinh tế biển nói riêng, rất cần nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển sang những ngành, lĩnh vực mới hơn, năng động và bền vững hơn theo hướng chuyển từ “nâu” sang “xanh”.
Đại dịch Covid -19 kéo theo “đứt gãy” cho nhiều ngành kinh tế biển
Nghị quyết số 36/NQ-TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển (KTB) Việt Nam đến năm 2045 đã xác định 6 mũi nhọn ưu tiên phải thành công, tạo thành khâu đột phá cho ngành KTB. Tuy nhiên, đứng trước sự tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19, một số ngành kinh tế được xác định là mũi nhọn như du lịch và dịch vụ du lịch, dầu khí, khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản,… đang sụt giảm doanh thu nghiêm trọng, không xác định thời điểm phục hồi. Đây thực chất là những ngành kinh tế dựa vào tự nhiên, do đó dễ bị tổn thương trước diễn biến dịch bệnh.
Dịch Covid-19 kéo dài cũng làm gián đoạn hoạt động thương mại thủy sản toàn cầu cũng như thay đổi xu hướng tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Theo đó, các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam cũng biến động theo xu hướng thị trường, dẫn đến xuất khẩu tôm chân trắng, tôm biển, cá biển, cua, ghẹ và nhuyễn thể hai mảnh vỏ tăng, trong khi xuất khẩu cá tra lại giảm sâu; cá ngừ, mực, bạch tuộc giảm mạnh và khó tiêu thụ trong nước.
Khai thác và kinh doanh dầu khí cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi giá dầu châu Á đã ở mức thấp liên tiếp trong các tháng đầu năm và vẫn trên đà giảm hơn 5% đến thời điểm hiện nay do biến thể Delta của virus gây dịch Covid-19.
Trong nước, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, lây lan nhanh, mạnh trên diện rộng cùng việc thực hiện giãn cách xã hội ở nhiều tỉnh, thành phố theo Chỉ thị số 16/CT-TTg cũng ảnh hưởng, tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; trong đó có PVN và các đơn vị thành viên khiến việc tiêu thụ các sản phẩm dầu khí như dầu thô, khí, điện, xăng dầu, phân bón đều giảm mạnh. Theo dự báo, trong những tháng còn lại của năm 2021, nhu cầu dầu thô của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á đều giảm sút do dịch Covid-19, thị trường tiêu thụ các sản phẩm dầu khí tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
Linh hoạt, tạo cơ hội cho những ngành kinh tế biển mới nổi
Đại dịch Covid-19 đã làm chúng ta phải thay đổi cách nhìn nhận đối với các nền KTB. Ví dụ như những địa phương ven biển lấy du lịch biển làm nền tảng, mũi nhọn để phát triển kinh tế sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất. Những nguồn lực vật chất, hạ tầng cơ sở của ngành du lịch như khu nghỉ dưỡng, khách sạn, phương tiện giao thông, dịch vụ chịu ảnh hưởng theo, dẫn tới nhiều doanh nghiệp phá sản. Do vậy, cần có biện pháp chuyển dịch cơ cấu ngành KTB một cách kịp thời linh hoạt, cụ thể, phải nhanh chóng có cơ chế để đầu tư vào năng lượng biển tái tạo, năng lượng gió ngoài khơi, đầu tư cho những ngành nghề mới như nuôi thủy sản xa bờ, phát triển nghề cá giải trí.
Thay vì đánh cá có thể nuôi cá, tổ chức du lịch ra khơi ngắm cá và câu cá giải trí, lặn ngắm san hô. Đây là những ngành nghề tạo giá trị kinh tế cao và ít gây tổn hại đến tự nhiên. Mô hình nuôi biển ngoài khơi và dịch vụ du lịch giải trí ngắm cảnh đáy biển khá phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, còn ít doanh nghiệp tham gia bởi đầu tư ban đầu lớn và chưa có cơ chế cụ thể khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Mặt khác, về phát triển đô thị biển tại 28 tỉnh ven biển. Bài toán quy hoạch hiện nay không chỉ là xây nhà, mở rộng diện tích mà phải làm kinh tế, tạo một hệ sinh thái nhân sinh. Việt Nam đã có những đô thị ven biển như: Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Nẵng điển hình, đã có nhiều thay đổi, trở thành những đô thị ven biển văn minh, thành phố biển đáng sống.
Đồng thời, muốn chuyển dịch KTB từ “nâu” sang “xanh” các địa phương còn phải biết tận dụng lợi thế của mình và biết chuyển những điểm yếu thành cơ hội để phát triển và kết nối vùng, không nên chỉ dựa vào khai thác tự nhiên. Ví dụ, một trong những lợi thế của các tỉnh ven biển miền Trung về phát triển cảng và hàng hải là có các vũng, vịnh ven bờ khá sâu, ít sa bồi, gần tuyến hàng hải quốc tế. Tuy nhiên, vùng này cũng có yếu thế là nguồn hàng khan hiếm,... Để chuyển yếu thế thành lợi thế, cần phát triển chuỗi đô thị ven biển thông qua việc nâng cấp và mở rộng quy mô của những đô thị ven biển có sẵn (Thanh Hóa, Vinh, Hà Tĩnh, Đồng Hới, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết và Vũng Tàu) và thiết lập các đô thị mới trong tương lai dựa trên việc xây dựng các khu kinh tế ven biển gắn với cảng biển nước sâu (Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Chu Lai - Dung Quất, Nhơn Hội, Vân Phong,...). Sự hình thành “chuỗi đô thị ven biển” sẽ gia tăng khả năng thu hút và tích tụ dân số, tạo ra cầu và cung (nhu cầu nội vùng), kéo theo việc tăng nguồn hàng “xuất ngay tại chỗ”.
Bên cạnh việc tạo ra liên kết vùng trong phát triển, những đô thị ven biển “mới” sẽ dần xuất hiện theo thời gian, giống như: TP. Hải Phòng hơn 286 năm về trước. Khi đó, một miền Trung nắng nhiều hơn mưa, nhìn liền phía Tây là dãy Trường Sơn sừng sững, nhìn xuống chân là cát nóng bỏng (dãy cồn đụn cát kéo dài hơn 500 km), nhìn về phía Đông là rủi ro từ biển cả,… sẽ trở thành một miền Trung thịnh vượng, bứt phá từ lợi thế của biển. Hy vọng sau Phú Quốc, sẽ có thêm Côn Đảo, Phú Quý, Cát Bà sẽ trở thành đô thị “đô thị đảo” thật sự, là điểm cầu thu hút đầu tư, kết nối bờ và biển, biển và đảo, kết nối biển Việt Nam với đại dương thế giới.
Đặc biệt, cần giải quyết tốt cân bằng giữa môi trường và phát triển trong phát triển KTB, trong đó có nghề cá hướng tới phát triển bền vững; bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển, trước hết là các hệ sinh thái biển - ven biển, là yếu tố nền tảng bảo đảm cho phát triển KTB hiệu quả và bền vững. Cần đưa các cân nhắc, vấn đề môi trường biển, thích ứng BĐKH, nước biển dâng,... vào trong bộ chỉ số để sàng lọc các dự án đầu tư, ngang bằng các chỉ số về KT-XH. Ban hành chính sách và hướng dẫn kỹ thuật cụ thể đối với việc kiểm soát chất thải từ các nguồn thải tiềm năng đổ ra biển, bao gồm cả việc quy định không chỉ hàm lượng chất thải sau xử lý so với quy chuẩn, mà phải quy định tổng lượng thải theo đơn vị thời gian để ngăn ngừa các tác động tích lũy.
Đồng thời, có chính sách riêng cho các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và khu bảo tồn đa dạng sinh học biển,... trong đó tăng cường phân cấp cho cộng đồng địa phương để chủ động bảo vệ nguồn sinh kế của chính họ. Đặc biệt, cần làm tốt quy hoạch không gian biển dựa vào hệ sinh thái để giảm thiểu mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển các ngành, lĩnh vực KTB theo yêu cầu của Luật Quy hoạch 2017. Áp dụng hiệu quả phương thức quản lý biển theo không gian, giao không chỉ quyền sử dụng khu vực biển cho các ngành, địa phương và các nhóm cộng đồng mà còn cả trách nhiệm quản lý cho họ, đồng thời với các chế tài cụ thể, đạt mức răn đe hiệu quả nhất để phát triển KTB xanh.
PGS.TS. NGUYỄN CHU HỒI
Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam