Triển khai EPR: Cần đồng bộ trong chính sách và tổ chức thực hiện
07/10/2022TN&MTTrách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) là công cụ tiên tiến được nhiều quốc gia sử dụng trong việc quản lý chất thải rắn. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc thực hiện EPR chỉ mang tính đối phó. Để triển khai EPR có hiệu quả việc xây dựng những quy định bắt buộc là cần thiết, đồng thời phải ban hành các công cụ hỗ trợ đồng bộ và sớm hoàn thiện đề án Thành lập Hội đồng EPR quốc gia và văn phòng Hội đồng EPR
Thực hiện EPR: Ban hành đồng bộ các cơ chế hỗ trợ
EPR là công cụ tiên tiến được nhiều quốc gia sử dụng trong việc quản lý chất thải rắn. Tuy nhiên ở nước ta, việc thực hiện EPR chỉ mang tính đối phó. Để triển khai EPR có hiệu quả việc xây dựng những quy định bắt buộc là cần thiết, đồng thời phải ban hành các công cụ hỗ trợ đồng bộ.
Nước ta, EPR được đưa vào Luật Bảo vệ Môi trường 2005, 5 nhóm ngành hàng là pin và ắc quy; điện và điện tử; săm lốp; dầu nhờn; ô tô và xe máy hiện đang là đối tượng thực hiện EPR theo Quyết định 16/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thu hồi sản phẩm thải bỏ. Tuy nhiên, do chưa có quy định rõ trách nhiệm bắt buộc của nhà sản xuất trong việc đóng góp kinh phí để thu hồi, xử lý sản phẩm sau sử dụng; chưa đặt ra tỷ lệ thu hồi, xử lý và chưa có cơ chế hiệu quả để thực hiện nên các doanh nghiệp còn thực hiện quy định này một cách cứng nhắc, mang tính đối phó.
Để thúc đẩy thực hiện EPR, Bộ TN&MT đã đưa ra những quy định: Tỷ lệ tái chế bắt buộc của từng loại sản phẩm, bao bì được xác định trên cơ sở tỷ lệ tái chế thực tế của từng loại sản phẩm, bao bì; mục tiêu tái chế quốc gia, yêu cầu bảo vệ môi trường và điều kiện KT-XH của đất nước từng thời kỳ. Nhà sản xuất, nhập khẩu có thể tái chế các sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu hoặc tái chế sản phẩm, bao bì cùng loại do nhà sản xuất, nhập khẩu khác sản xuất, nhập khẩu để đạt được tỷ lệ tái chế bắt buộc.
Trường hợp nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện tái chế cao hơn tỷ lệ tái chế bắt buộc thì được bảo lưu phần tỷ lệ chênh lệch để tính vào tỷ lệ tái chế của các năm tiếp theo; thời gian bảo lưu là 3 năm. Tỷ lệ tái chế bắt buộc được điều chỉnh theo chu kỳ 3 năm một lần; trường hợp cần thiết, tỷ lệ tái chế bắt buộc có thể được điều chỉnh sớm hơn khi Hội đồng EPR Quốc gia kiến nghị và được Bộ trưởng Bộ TN&MT chấp thuận.
Việc thiết kế hệ thống EPR rất cần sự tham gia của hệ thống thu gom phế liệu phi chính thức (đồng nát). Do đó, trước khi những quy định này được triển khai cần quan tâm thích đáng đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống này và có một lộ trình hợp lý cho việc áp dụng EPR.
Để triển khai ERP hiệu quả, cần có sự đồng bộ trong chính sách và tổ chức thực hiện. Đối với công tác quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về EPR, hệ thống đăng ký phải được hoàn thiện và đi trước một bước để thúc đẩy việc hình thành, quản lý và kiểm soát hệ thống. Cơ chế tín chỉ tái chế rất quan trọng để khuyến khích cơ sở có tỷ lệ tái chế cao hơn tỷ lệ bắt buộc, phần cao hơn được cấp tín chỉ để trao đổi trên thị trường nhằm bù đắp cho cơ sở có tỷ lệ tái chế thấp hơn tỷ lệ bắt buộc.
Sớm thành lập Hội đồng EPR quốc gia và Văn phòng Hội đồng EPR
Hội đồng EPR quốc gia được quy định tại điều 88 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP. Hội đồng có nhiệm vụ tư vấn, giúp Bộ trưởng Bộ TN&MT quản lý, giám sát, hỗ trợ việc thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu.
Theo dự thảo, Hội đồng EPR có chức năng tư vấn, đề xuất với Bộ trưởng các giải pháp chính sách quản lý, giám sát thực hiện tái chế, thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất và nhà nhập khẩu; đề xuất tiêu chí ưu tiên, hình thức thực hiện, mức hỗ trợ tài chính cho các hoạt động tái chế, thu gom, xử lý chất thải. Bên cạnh đó, Hội đồng cũng có nhiệm vụ thông qua các đề nghị mức hỗ trợ tài chính của cơ quan tổ chức có liên quan; thông qua và trình Bộ trưởng ban hành quy chế quản lý và sử dụng tiền đóng góp tài chính vào quỹ bảo vệ môi trường, hỗ trợ tái chế, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu; trình Bộ trưởng phê duyệt kế hoạch báo cáo hoạt động hàng năm về quản lý, giám sát tình hình thực hiện trách nhiệm tái chế, thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu.
quang cảnh buổi họp báo cáo đề án thành lập Hội đồng EPR quốc gia và Văn phòng Hội đồng EPR quốc gia
Hội đồng EPR quốc gia làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. Cơ cấu Hội đồng EPR quốc gia gồm đại diện các Bộ: TN&MT, Tài chính, Công Thương, Y tế, NN&PTNT; đại diện các nhà sản xuất, nhập khẩu; đại diện đơn vị tái chế, đơn vị xử lý chất thải và đại diện tổ chức xã hội, môi trường có liên quan.
Cũng theo dự thảo, văn phòng Hội đồng EPR quốc gia là cơ quan giúp việc cho Hội đồng EPR quốc gia và Bộ trưởng Bộ TN&MT trong việc tổ chức quản lý, giám sát và hỗ trợ việc thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu.
Văn phòng Hội đồng EPR có nhiệm vụ tổ chức giám sát, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ tái chế, trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu; tổng hợp, thu thập thông tin, dữ liệu về trách nhiệm tái chế, xử lý chất thải. Văn phòng Hội đồng cũng là đầu mối tiếp nhận, tổng hợp và tổ chức thẩm tra hồ sơ đề nghị hỗ trợ tài chính cho hoạt động tái chế, thu gom, xử lý chất thải để trình Hội đồng EPR quốc gia. Vận hành Cổng thông tin điện tử EPR quốc gia, xây dựng các báo cáo quốc gia về thực thi EPR. Ngoài ra, thực hiện các chức năng khác như nghiên cứu khoa học công nghệ, thông tin, trao đổi, truyền thông, hợp tác, thực hiện các chương trình, dự án. Ngoài ra, dự thảo đề án cũng đề cập đến cơ cấu tổ chức bộ máy; nhiệm vụ quyền hạn của các thành viên Hội đồng; cơ chế hoạt động của Hội đồng và Văn phòng Hội đồng.
Để triển khai EPR hiệu quả, cần có sự đồng bộ trong chính sách và tổ chức thực hiện. Thực thi EPR sẽ tạo ra lợi ích kinh tế thông qua việc tăng cường năng lực của thị trường tái chế, tạo việc làm. Trong quá trình thực hiện EPR, nhà nước đóng vai trò là người giám sát, doanh nghiệp là người vận hành, xã hội là người đồng hành.
Cơ hội cho các doanh nghiệp vì cộng đồng và môi trường
Hiện nay, một số ý kiến cho rằng, EPR là gánh nặng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, chúng ta cần nhìn nhận một cách công bằng về EPR, tức là khó khăn luôn đi kèm với thuận lợi hay thách thức luôn đi kèm với cơ hội. EPR là một cách tiếp cận của chính sách môi trường tuân theo nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Vì vậy, EPR sẽ tạo ra khó khăn cho các sản phẩm ít thân thiện với môi trường mà cụ thể là sản xuất sử dụng các nguyên liệu khó tái chế, chất độc hại, thiết kế dẫn đến khó thu gom,… Nhưng ngược lại EPR sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm thân thiện với môi trường hơn. Điều này là vô cùng quan trọng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một sản phẩm.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà chia sẻ về lợi ích của thực hiện kinh tế tuần hoàn với các doanh nghiệp
Theo ông Fausto Tazzi, Tổng giám đốc Công ty TNHH La Vie, Phó Chủ tịch Liên minh tái chế bao bì Việt Nam, hiện nay không chỉ ở các nước phát triển mà nhiều quốc gia đang phát triển đã triển khai áp dụng EPR. Thực tế, các doanh nghiệp lớn đều mong muốn phát triển bền vững và sẵn sàng nguồn lực để xây dựng lộ trình phát triển, sản xuất bền vững, thân thiện với môi trường. “Việc thực thi nghiêm túc các quy định về EPR vừa thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp, vừa là cơ hội phát triển, tăng sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, dưới góc độ doanh nghiệp, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ việc xây dựng và thực thi các quy định về EPR tại Việt Nam ở thời điểm hiện tại”, ông Fausto Tazzi nhấn mạnh.
Có thể khẳng định, EPR giúp định hướng hoạt động sản xuất sạch hơn, sản phẩm thân thiện với môi trường hơn. Do đó, doanh nghiệp nên nắm bắt xu hướng để chủ động tạo ra lợi thế cho các sản phẩm của mình như: Sử dụng bao bì dễ thu gom, tái chế; Xây dựng thương hiệu sản phẩm thân thiện với môi trường, có trách nhiệm cộng đồng; Xây dựng niềm tin và mối quan hệ bền vững với khách hàng và các đối tác.
Diệp Anh