Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo và cách tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng tái tạo dựa trên điều kiện tự nhiên tại các tỉnh miền Trung
23/10/2024TN&MTNhững năm gần đây, vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề quan tâm của toàn cầu và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều quyết sách, chủ trương nhằm khuyến khích phát triển các loại hình năng lượng tái tạo. Đây cũng chính là cơ hội và bước ngoặt để các địa phương vùng Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ nhận diện rõ hơn về tiềm năng, lợi thế vượt trội của mình.
Bài viết này tập trung giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh trong phát triển năng lượng tái tạo nhằm hiện thực hóa mục tiêu giảm mức phát thải ròng bằng 0 (Net-zero) vào năm 2050, đồng thời, đưa ra giải pháp phát triển năng lượng cho các tỉnh miền Trung dựa vào các điều kiện tự nhiên và cách tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng tái tạo dựa trên điều kiện địa phương.
Năng lượng Tái tạo- Yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển bền vững
Năng lượng tái tạo là lĩnh vực ngày càng được khai thác phổ biến trong hệ thống năng lượng toàn cầu; có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển bền vững ở nhiều quốc gia trên thế giới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế gắn với tận dụng nguồn năng lượng sạch, an toàn; theo dự kiến, năng lượng tái tạo sẽ tăng trưởng 7,1% mỗi năm trong hai thập niên tới, sau đó thay thế than đá để trở thành nguồn năng lượng hàng đầu thế giới vào năm 2040. Nhận thức rõ điều đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo; đồng thời, tiến tới hiện thực hóa cam kết giảm mức phát thải ròng bằng “0” (Net-zero) vào năm 2050. Thực tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế trong đầu tư, khai thác các loại năng lượng tái tạo (đặc biệt là năng lượng mặt trời và năng lượng gió). Mặt khác, nước ta đã và đang thực hiện quá trình đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng giảm dần nguồn điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng sạch, bền vững, giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính; tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, như nhà máy năng lượng mặt trời, năng lượng gió, nhiệt điện,… theo tinh thần phát huy nội lực cũng như tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác và thu hút nguồn vốn FDI từ các doanh nghiệp lớn.
Về định hướng phát triển năng lượng tái tạo
Vấn đề phát triển năng lượng tái tạo được đề cập ngay từ chiến lược quốc gia đầu tiên về tăng trưởng xanh, cụ thể, Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” xác định cần giảm thiểu cường độ phát thải khí nhà kính, đồng thời, đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo nhằm từng bước gia tăng tỷ trọng của các nguồn năng lượng sạch trong sản xuất, tiêu thụ năng lượng của quốc gia. Đến tháng 10/2021, Chính phủ đề ra các mục tiêu cụ thể, như tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 15% - 20% (năm 2030) và 25% - 30% (năm 2050). Bên cạnh đó, Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15/5/2023, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2023, tầm nhìn đến năm 2050" (Quy hoạch Điện VIII) xác định mục tiêu tổng quát trong dài hạn là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện chuyển đổi năng lượng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải; hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới,...
Về các chính sách hỗ trợ phát triển ngành năng lượng tái tạo
Đến nay, Nhà nước đã ban hành, thiết lập các khuôn khổ pháp lý nhằm xây dựng thị trường điện cạnh tranh và triển khai một loạt chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, cụ thể:
Một là, tăng cường miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án điện từ các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm hoặc miễn thuế 4 năm (9 năm giảm 50% thuế). Các dự án năng lượng tái tạo được miễn thuế nhập khẩu đối với tài sản nhập khẩu cố định và vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được; miễn, giảm thuế sử dụng, cho thuê đất được áp dụng cho các dự án đầu tư. Tuy nhiên, việc thực hiện thuế suất ưu đãi đối với việc nhập khẩu các thiết bị năng lượng tái tạo đang gặp nhiều khó khăn, bởi hiện chưa có biểu thuế riêng phân biệt cho các thiết bị sử dụng năng lượng hiệu suất cao.
Hai là, các dự án điện từ các nguồn năng lượng tái tạo được sử dụng các nguồn chính sách vay tín dụng ưu đãi, như tăng tỷ lệ vay so với các dự án khác từ 70% (theo thông lệ) lên 80%. Mặt khác, Chính phủ cũng áp dụng cơ chế mua bán giá điện FIT (Feed-in Tariffs) nhằm hỗ trợ đầu tư năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió; đồng thời, ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm điều chỉnh cơ chế mua bán điện đối với dự án điện mặt trời trên mái nhà, thay đổi từ cơ chế bù trừ điện năng (net-metering) thành cơ chế mua bán điện theo chiều giao và nhận riêng biệt,…
Ba là, nghiên cứu, thực hiện các chính sách ưu đãi về giá, cụ thể: 1- Năng lượng gió: Theo Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg, ngày 10-9-2018, của Thủ tướng Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg, ngày 29/6/ 2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển dự án điện gió tại Việt Nam” quy định các nhà đầu tư tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn khi giá bán điện tăng từ 7,8UScent/kWh lên 8,5USScent/kWh đối với các dự án trên đất liền; chính thức áp dụng giá 9,8USScent/kWh đối với các dự án trên biển; 2- Năng lượng sinh khối: Theo Quyết định số 08/2020/QĐ-TTg, ngày 5/3/2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung, một số điều của Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại Việt Nam” quy định bên mua điện (Tập đoàn EVN) có nghĩa vụ phải mua toàn bộ điện năng theo hợp đồng không đàm phán với giá bán điện theo 2 loại sinh khối chính: Đồng phát nhiệt - điện (5,8UScent/kWh) và chi phí tránh được theo giá nhiệt điện than nhập khẩu (khoảng 7,5UScent/kWh áp dụng cho khu vực phía Nam). 3- Năng lượng điện rác: Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg, ngày 5/5/2014, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam” quy định mức ưu tiên và hỗ trợ cho điện rác thải theo hai loại hình công nghệ: Chôn lấp thu hồi khí mê-tan và thiêu đốt bảo đảm vệ sinh môi trường với mức giá lần lượt là 7,28UScent/kWh và 10,05UScent/kWh. 4- Năng lượng điện mặt trời: Theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 11/4/2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam” quy định mức hỗ trợ giá khá cao (9,35UScent/kWh); đồng thời tạo điều kiện cho đầu tư và phát triển các dự án điện trên mái nhà bên cạnh điện mặt trời trên mặt đất hoặc nối lưới.
Về triển vọng phát triển năng lượng tái tạo hiện nay
Thứ nhất, điều kiện địa lý tự nhiên ở Việt Nam rất lý tưởng cho sự phát triển của ngành năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Việt Nam có số giờ nắng cao, trung bình từ 1.500 giờ - 1.700 giờ mỗi năm với cường độ bức xạ mặt trời không thay đổi đáng kể; năng lượng mặt trời trên mái nhà dự báo sẽ chiếm khoảng 50% tổng công suất nặng lượng mặt trời của Việt Nam (năm 2030); nguồn tài nguyên gió lớn nhất trong khu vực với tiềm năng 311GW và trên 39% tổng diện tích có tốc độ gió lớn hơn 6m/giây (tương đương công suất 512GW). Bên cạnh đó, với mạng lưới gồm khoảng 3 nghìn sông, ngòi lớn, nhỏ, nước ta là một trong số 14 quốc gia trên thế giới đứng đầu về tiềm năng thủy điện; sở hữu khoảng 8,6% diện tích đất, nước thích hợp cho phát triển các trang trại điện gió; có trên 120.000 trạm thủy điện với tổng công suất ước tính đạt 300MW. Thêm vào đó, Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong tận dụng nguồn năng lượng sinh khối từ nhiều nguồn khác nhau, như gỗ củi, phế thải từ nông nghiệp, rác thải đô thị,...; là yếu tố quan trọng góp phần giải quyết bài toán bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; giảm thiểu ô nhiễm môi trường; cải thiện chi phí, tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc các ngành năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, biển; nghiên cứu, đào tạo, sáng chế,… Ngoài ra, nước ta còn có tiềm năng năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển (thủy triều),...
Thứ hai, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Việt Nam là quốc gia sử dụng điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Trong vòng 10 năm tới, tốc độ tăng trưởng năng lượng tái tạo đạt khoảng 20%, mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn nước thực hiện đầu tư, kinh doanh. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng thứ 31 trong danh sách các quốc gia có độ thu hút cao về các cơ hội đầu tư và triển khai trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Tính riêng đối với chuyển dịch 2 ngành điện gió và điện mặt trời, tiềm năng đóng góp vào GDP cả nước lên tới 70 - 80 tỷ USD, tạo ra khoảng 105 nghìn việc làm trực tiếp.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước hiện đang tích cực, mở rộng tham gia các khuôn khổ hợp tác quốc tế về chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Nhiều chính sách hỗ trợ và các giải pháp được triển khai nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo quốc gia. Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể triển khai thực hiện nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như hiện thực hóa mục tiêu đạt tỷ lệ 67,5% - 71,5% năng lượng tái tạo đến năm 2050 được đề ra trong Quy hoạch Điện VIII.
Thứ tư, phát triển năng lượng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển ngành năng lượng toàn cầu và chiếm vị trí quan trọng trong phát triển bền vững ở các nền kinh tế trên thế giới; do đó, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn sản xuất điện chính và ước tính, cung cấp khoảng một phần ba lượng điện trên thế giới. Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để thu hút đầu tư phát triển ngành năng lượng tái tạo trong tương lai, đồng thời, vị thế địa - kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu mở ra nhiều điều kiện, cơ hội thuận lợi trong tăng trưởng xanh để có thể chuyển mình, bắt kịp, tiến cùng, vượt lên, đi tắt đón đầu và tạo đà cho một bước nhảy vọt về phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.
Điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo tại miền Trung
Khu vực miền Trung nước ta có diện tích rộng lớn và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển năng lượng tái tạo. Với hệ thống núi non, sông ngòi và biển cả dài, miền Trung có khả năng khai thác gió, năng lượng mặt trời và thủy điện nhỏ một cách hiệu quả. Việc tận dụng tiềm năng này sẽ giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch và đóng góp vào mục tiêu bảo vệ môi trường và khí hậu toàn cầu.
Năng lượng gió: Miền Trung có tiềm năng lớn về năng lượng gió miền trung có tiềm năng gió lớn nhất với 880MW, đặc biệt là các tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận, nơi có tốc độ gió trung bình cao và ổn định (khoảng 6-7 m/s). Những khu vực này thích hợp cho việc phát triển các dự án điện gió cả trên bờ và ngoài khơi. Quảng Bình, Quảng Ngãi và Phú Yên cũng có tiềm năng phát triển điện gió nhưng cần nghiên cứu và đánh giá thêm về tác động của bão và thời tiết khắc nghiệt.
Năng lượng mặt trời: Miền Trung sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi với số giờ nắng cao, trung bình từ 2,000 đến 2,500 giờ mỗi năm. Điều này tạo điều kiện lý tưởng cho việc lắp đặt và vận hành hệ thống điện mặt trời. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu khá cao, hệ thống điện mặt trời mang lại lợi ích kinh tế dài hạn. Sử dụng điện mặt trời giúp giảm đáng kể chi phí điện hàng tháng. Đặc biệt, tại các khu vực có nhiều nắng như miền Trung, thời gian hoàn vốn của hệ thống điện mặt trời thường ngắn hơn so với các khu vực khác. Ngoài ra, việc lắp đặt hệ thống điện mặt trời còn giúp tăng giá trị bất động sản, làm tăng sự hấp dẫn cho các dự án nhà ở và thương mại.
Thủy điện nhỏ: Miền Trung Việt Nam là dải đất dài và hẹp, phía Tây là dãy núi Trường Sơn với cao độ trên 1.000 m với nhiều đỉnh núi cao, có đỉnh đạt đến 2.598 m như đỉnh núi Ngọc Linh. Hệ thống sông tại Miền Trung chia ra hai hướng rõ rệt. Một số con sông ở sườn Tây Trường Sơn chảy về hướng Tây và trở thành phụ lưu của sông Mêkông. Sông ở sườn Đông Trường Sơn đổ ra biển Đông sau khi chảy qua vùng Đồng bằng Duyên hải Trung bộ. Do có hệ thống sông ngòi phong phú, thuận lợi cho việc phát triển các dự án thủy điện nhỏ, giúp cung cấp năng lượng cho các khu vực nông thôn và miền núi.
Năng lượng sinh khối: Các hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi tại miền Trung cũng cung cấp nguồn sinh khối dồi dào. Ví dụ, rơm rạ, trấu và phế thải từ ngành chăn nuôi có thể được sử dụng để phát triển các dự án năng lượng sinh khối tại các tỉnh như Quảng Ngãi và Bình Định.
Tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng tái tạo dựa trên điều kiện tự nhiên và hạ tầng địa phương
Hiện nay, hầu hết nguồn cung cấp năng lượng của Việt Nam đến từ năng lượng hóa thạch, chủ yếu là than và dầu mỏ. Điều này gây ra nhiều vấn đề về an ninh năng lượng và tác động tiêu cực đến môi trường. Bằng cách đầu tư vào hạ tầng năng lượng tái tạo ở miền Trung, Việt Nam có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng, giảm rủi ro và tăng tính bền vững của hệ thống năng lượng.
Đầu tư vào hạ tầng năng lượng tái tạo tạo ra cơ hội phát triển kinh tế đáng kể cho miền Trung. Việc xây dựng các dự án năng lượng tái tạo như trạm điện gió, trạm điện mặt trời và nhà máy thủy điện sẽ thu hút đầu tư, tạo ra thu nhập và việc làm cho người dân địa phương. Đồng thời, việc phát triển hạ tầng năng lượng tái tạo cũng sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp liên quan như sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo và dịch vụ kỹ thuật. Từ đó, đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng tái tạo ở miền Trung là một bước quan trọng để nước ta đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Việc sử dụng năng lượng tái tạo giúp giảm lượng khí thải carbon, giảm ô nhiễm không khí và bảo vệ môi trường trong khu vực. Ngoài ra, việc sử dụng năng lượng tái tạo cũng giúp giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng và tăng cường sự tự chủ năng lượng của Việt Nam.
Đầu tư vào hạ tầng năng lượng tái tạo ở miền Trung cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hệ thống điện mạch lưới thông minh. Việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo vào hệ thống điện mạch lưới sẽ giúp tối ưu hóa sự phân phối năng lượng, tăng cường khả năng chịu tải và giảm thiểu tổn thất năng lượng trong quá trình vận chuyển.
Để tối ưu hóa việc phát triển năng lượng tái tạo dựa trên điều kiện tự nhiên và hạ tầng tại các tỉnh miền Trung, cần thực hiện một số biện pháp sau:
Phát triển các cụm dự án điện gió và điện mặt trời quy mô lớn: Tại các tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận, chính quyền địa phương có thể phối hợp với các nhà đầu tư để phát triển các cụm dự án điện gió và điện mặt trời quy mô lớn, tận dụng tối đa các khu vực đất cằn cỗi, ít sử dụng trong nông nghiệp. Điều này không chỉ tối ưu hóa diện tích sử dụng mà còn giảm chi phí vận hành và bảo dưỡng.
Xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ và nâng cấp lưới điện: Để tích hợp hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, các tỉnh miền Trung cần đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp hạ tầng truyền tải điện. Các hệ thống lưới điện thông minh và các trạm biến áp cần được xây dựng và cải tiến để đảm bảo khả năng điều phối và phân phối nguồn năng lượng ổn định.
Kết hợp giữa năng lượng mặt trời và thủy điện: Tại các tỉnh có hệ thống sông ngòi như Quảng Bình và Quảng Nam, có thể kết hợp các dự án thủy điện nhỏ với các dự án điện mặt trời trên mái nhà. Điều này giúp đảm bảo nguồn cung điện ổn định ngay cả trong các điều kiện thời tiết khắc nghiệt hoặc vào ban đêm.
Phát triển các dự án sinh khối tại các vùng nông nghiệp: Các tỉnh như Bình Định và Quảng Ngãi có thể tập trung vào các dự án năng lượng sinh khối từ phế thải nông nghiệp. Việc này không chỉ giúp xử lý phế thải mà còn cung cấp nguồn năng lượng sạch, giảm phụ thuộc vào các nguồn nhiên liệu hóa thạch.
Chương trình đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương: Chính quyền các tỉnh miền Trung cần phối hợp với các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp để tổ chức các chương trình đào tạo kỹ thuật, nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý và kỹ sư địa phương. Điều này giúp đảm bảo việc triển khai và vận hành các dự án năng lượng tái tạo hiệu quả.
Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân: Để thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân, các tỉnh miền Trung cần xây dựng các chính sách ưu đãi rõ ràng và minh bạch, bao gồm hỗ trợ về giá điện, thuế và thủ tục hành chính. Các mô hình hợp tác công tư (PPP) cũng cần được triển khai để chia sẻ rủi ro và lợi ích giữa chính quyền địa phương và nhà đầu tư.
Cơ chế liên kết vùng
Những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt “nắng to, gió lớn” từng được coi là bất lợi đối với phát triển kinh tế thì nay lại là nguồn nguyên liệu đầu vào tiềm năng cho phát triển điện năng quy mô lớn. Điều này vừa góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, vừa góp phần quan trọng thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế tinh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại Nghị quyết số 26-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Bộ Chính trị xác định rõ quan điểm và mục tiêu là đổi mới tư duy phát triển, tạo đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động trên cơ sở phát triển nhanh, bền vững tương xứng với tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng.
Hiện thực hóa Nghị quyết, trong Chương trình hành động của Chính phủ đã chỉ ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, thúc đẩy phát triển kinh tế biển; trong đó năng lượng tái tạo nổi lên, trở thành một động lực tích cực thúc đẩy kinh tế-xã hội của vùng tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên cơ sở đó, các trung tâm năng lượng tái tạo lớn sẽ được hình thành với các loại hình năng lượng gió ven bờ, năng lượng gió ngoài khơi, năng lượng mới (hydrogen).
Việc tối ưu hóa phát triển năng lượng tái tạo ở miền Trung không chỉ là một giải pháp về năng lượng mà còn là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của khu vực. Các dự án cần được thiết kế và triển khai sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, không làm ảnh hưởng đến sinh thái và hệ sinh thái biển.
Nghiên cứu và đánh giá tác động môi trường: Trước khi triển khai các dự án, các tỉnh cần tiến hành nghiên cứu và đánh giá tác động môi trường toàn diện để đảm bảo các dự án không gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và cộng đồng địa phương.
Phát triển các mô hình kinh tế xanh: Kết hợp phát triển năng lượng tái tạo với các mô hình kinh tế khác như du lịch sinh thái, nông nghiệp sạch và nuôi trồng thủy sản để đảm bảo sự phát triển kinh tế đa dạng và bền vững.
Các địa phương cần sớm xây dựng chương trình hành động trên cơ sở chương trình, kế hoạch của Chính phủ, xem đây là thước đo đồng thời thể hiện trách nhiệm của từng cấp ủy đảng, chính quyền trong triển khai Nghị quyết và chương trình hành động của Chính phủ. Bên cạnh đó, các địa phương tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách và đẩy mạnh phát triển bền vững năng lượng xanh, năng lượng tái tạo thích ứng với biến đổi khí hậu và liên kết vùng.
Các địa phương phải nâng cao nhận thức và thống nhất cao ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí, tầm quan trọng phát triển bền vững năng lượng xanh, năng lượng tái tạo thích ứng với biến đổi khí hậu và liên kết phát triển vùng; coi phát triển bền vững năng lượng xanh, năng lượng tái tạo thích ứng với biến đổi khí hậu và liên kết phát triển vùng là xu thế tất yếu, là động lực phát triển, kết nối và dẫn dắt sự phát triển, qua đó tạo không gian phát triển thống nhất.
Song để Nghị quyết 26 đi vào cuộc sống đạt được hiệu quả đề ra, cần có cơ chế điều phối kết nối phát triển vùng để nâng cao trách nhiệm và phát huy hiệu quả hoạt động liên kết nội vùng và các vùng lân cận. Theo đó, một trong những điều kiện quan trọng cho phát triển ngành năng lượng là cần có quy hoạch và các cơ chế chính sách đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, gắn với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Trung ương, địa phương và của vùng, trên cơ sở xác định thực hiện có hiệu quả chủ trương chuyển đổi năng lượng của Chính phủ theo mục tiêu cam kết tại Hội nghị COP26. Do đó, sau khi Chính phủ ban hành Quy hoạch điện VIII và cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo thích ứng với biến đổi khí hậu và liên kết vùng, các tỉnh tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch với lộ trình, bước đi đồng bộ, hiệu quả, từ kêu gọi xúc tiến đầu tư đến khảo sát khu vực có tiềm năng phát triển, nhất là điện gió ngoài khơi, thủy điện tích năng, phát triển nguồn năng lượng mới (hydrogen), thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư hạ tầng truyền tải điện đồng bộ với các nhà máy điện,... bảo đảm phù hợp các quan điểm chỉ đạo theo Nghị quyết 55- NQ/TW của Bộ Chính trị.
Kết luận
Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo cho các tỉnh miền Trung cần dựa trên sự kết hợp tối ưu giữa điều kiện tự nhiên và hạ tầng sẵn có. Các tỉnh này có thể trở thành điểm sáng về năng lượng tái tạo của Việt Nam nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. Điều này không chỉ góp phần vào đạt mục tiêu Net Zero mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho đất nước và khu vực.
Tài liệu tham khảo
1. Quyết định số 2068/TTg, ngày 25-11-2015, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050”; Quyết định số 428/TTg, ngày 18-3-2016, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030”; Nghị quyết số 55NQ/TW, ngày 11-2-2020, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15-5-2023, của Thủ tướng Chỉnh phủ, về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”;
2. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/11/2022 của Bộ Chính trị về “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”;
3. TS. Phan Thị Sông Thương - Nguyễn Tất Trường - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội vùng Trung Bộ - Tạp chí Cộng sản: “Một số vấn đề về phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, tiềm năng và hàm ý giải pháp”.
ThS. Mai Thị Ngân
Đại học TN&MT Hà Nội phân hiệu Thanh Hóa