Quy hoạch và xây dựng các đô thị ven biển “xanh” trong bối cảnh 4.0
20/11/2023TN&MTTrong xu hướng liên kết kinh tế và hợp tác hiện nay, việc lựa chọn các đô thị ven biển để phát triển và liên kết kinh tế là yêu cầu bắt buộc đối với các địa phương có biển. Tuy nhiên, để tránh việc phát triển thiếu kiểm soát, sự sao chép từ các đô thị với nhau, những đặc trưng văn hóa hay khía cạnh bền vững văn hóa rất cần được quan tâm từ việc tổ chức không gian đô thị đến từng công trình kiến trúc,...
Chú ý tới yếu tố khí hậu theo từng vùng, miền
Biến đổi khí hậu đang hiện hữu và diễn ra ở nước ta rất khắc nghiệt, mùa hè nắng nóng, bức xạ mặt trời lớn, đặc biệt ở phía Bắc có mùa đông lạnh với độ ẩm cao. Vì vậy, việc quy hoạch và phát triển đô thị xanh phải chú ý tới các yếu tố khí hậu theo từng vùng, miền địa phương khác nhau. Ví dụ, vùng núi Đông Bắc, vùng núi Tây Bắc, vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng gió Lào miền Trung, vùng ngập lũ Nam Bộ,... Khí hậu các địa phương Việt Nam hoàn toàn khác với khí hậu các nước Âu - Mỹ. Do vậy, những công nghệ của các nước phát triển Âu - Mỹ là không hoàn toàn phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm Việt Nam. Nếu những giải pháp cho khí hậu Âu - Mỹ là sưởi ấm, thì tại Việt Nam là làm mát, hút ẩm và chống giá buốt,... Ở một góc nhìn khác, điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta cũng rất thuận lợi cho việc thiết lập những sắc thái riêng với các thành tố xanh trong quy hoạch và xây dựng đô thị.
Đô thị xanh ven biển Việt Nam phải được xây dựng phù hợp với điều kiện của nền kinh tế đất nước.
So với nhiều quốc gia khác, các địa phương ven biển ở nước ta phát triển chưa đồng đều, có những nơi kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, quy hoạch và xây dựng đô thị xanh nên phát huy sử dụng được các nguồn lực tại chỗ, hướng đến những giải pháp xây dựng đơn giản, phù hợp với trình độ xây dựng của địa phương, dễ bảo dưỡng đạt được mục tiêu giá thành hợp lý phù hợp với khả năng thu nhập của người dân.
Có tính liên kết kinh tế, hợp tác và văn hóa vùng miền
Trong xu hướng liên kết kinh tế và hợp tác hiện nay, việc lựa chọn các đô thị ven biển để phát triển và liên kết kinh tế là yêu cầu bắt buộc đối với các địa phương có biển, điều đó sẽ giúp các tỉnh, vùng tiết kiện được nguồn lực về tài chính, nhân lực, KHCN,... của địa phương. Hơn nữa, cần phải tập trung nguồn lực cho các đô thị ven biển, nhằm tạo sự đột phá mạnh và sức lan tỏa rộng đối với quá trình phát triển KT-XH của địa phương. Trong bối cảnh đó, những đặc trưng văn hóa hay khía cạnh bền vững văn hóa rất cần được quan tâm từ việc tổ chức không gian đô thị đến từng công trình kiến trúc,... tránh việc phát triển thiếu kiểm soát, sao chép từ các đô thị với nhau.
Theo khảo sát thực tế, các kiến trúc sư Việt Nam đều có chung nhận xét: Các đô thị biển tuy đã nhiều lần điều chỉnh quy hoạch chung nhưng cũng mới chỉ giải quyết được vấn đề tổ chức mặt bằng tổng thể, phân khu chức năng, các hướng phát triển mà chưa đề xuất được không gian kiến trúc, đặc biệt là trên các mặt tiền tuyến ven biển, các quy định về tầng cao trung bình và các chỉ tiêu chủ yếu của đô thị hướng biển. Các dự báo về quy mô dân số và dự kiến phân bổ dân số cho từng khu vực chưa hợp lý, chưa đủ cơ sở làm tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề phát triển đô thị liên quan.
Quy hoạch chi tiết chạy đua theo phong trào khai thác chia lô, bán nền, chiếm lĩnh toàn bộ không gian đô thị. Tổ chức môi trường ở còn ỷ lại các khu vực tự nhiên mà quên đi việc cải thiện môi trường, không gian tại các khu đô thị. Những vành đai huyết mạch ven biển chưa có cơ hội kết nối sâu trong đất liền nên chưa phát huy hết các yếu tố gợi mở của biển. Thực tế hiện nay, có rất nhiều ý kiến tranh cãi về cách phát triển của đô thị này. Đô thị xanh ven biển cần tiếp cận nhiều hơn dưới góc độ địa lý văn hóa, nghiên cứu khảo sát văn hóa trong mối tương quan với các điều kiện về địa lý, môi trường tự nhiên. Từ đó, nhận diện ra đặc trưng văn hóa của mỗi khu vực thông qua mối quan hệ giữa môi trường sống với các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội. Nói cách khác là thông qua thái độ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên để xác định những đặc trưng văn hóa của khu vực đó.
Những việc cần làm để phát triển đô thị biển
Cần tập trung vào yêu cầu quản trị đối với từng đô thị biển trong hệ sinh thái cộng sinh của khu kinh tế ven biển.
Trước hết, mỗi khu kinh tế ven biển và các đô thị trong đó cần định hình ngành kinh tế biển nào là “sở trường” ở đây trong số các ngành hàng hải, khai thác khoáng sản biển, công nghiệp biển, đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản và du lịch biển. Việc lựa chọn này không khó vì chỉ cần dựa vào hiện trạng và đánh giá tiềm năng. Sau khi các ngành kinh tế biển được lựa chọn, việc tiếp theo là lựa chọn các ngành kinh tế trên bờ sao cho kết nối được với các ngành kinh tế biển đã lựa chọn thành chuỗi giá trị sản xuất - dịch vụ. Chuỗi giá trị này tạo được vòng kinh tế tuần hoàn sẽ trở thành chuỗi giá trị xanh, không phát thải ô nhiễm.
Quy hoạch và quản lý các khu kinh tế ven biển và các đô thị, trong đó cần thực hiện dựa trên các khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới: Quy hoạch gắn với rủi ro từ tai biến thiên nhiên, giảm phát thải môi trường và ứng phó với BĐKH. Quản trị đô thị dựa trên công khai thông tin, có sự tham gia của người dân và chính quyền thực hiện trách nhiệm giải trình. Các quyết định quản lý không đi ngược quy luật tự nhiên và tăng cường sức chống chịu trước tác động của thiên nhiên.
Việc tiếp theo, cần quan tâm tới chính quyền đô thị. Ở Việt Nam, thể chế quản lý ở nông thôn và đô thị hoàn toàn giống nhau, đều là một hệ thống 3 cấp mà mỗi cấp đều có Hội đồng nhân dân, UBND và Chủ tịch UBND. Sự khác nhau giữa nông thôn và đô thị chỉ là tên gọi và diện tích, dân số của mỗi cấp hành chính. Đây chính là nhược điểm của bộ máy quản lý đô thị: Thể chế cồng kềnh, nhân lực nhiều và chi phí lớn. Gần đây, xu hướng mong muốn đổi mới theo thể chế chính quyền đô thị đang diễn ra tại nhiều đô thị lớn.
Công nghệ 4.0 ngày càng giúp cho quản lý đô thị dễ dàng hơn, phát triển đô thị hiệu quả hơn và chất lượng đô thị cao hơn. Một đô thị đơn vị cần được xác định với dân số, diện tích phù hợp sao cho vừa sức một cấp quản lý trực tiếp. Lợi ích của cư dân được đặt vào trung tâm phát triển đô thị. Một thành phố lớn có thể gồm nhiều đô thị đơn vị, được quản lý theo mô hình “liên bang” các đô thị đơn vị. Vậy nên, trong quá trình phát triển, các đô thị biển cần tiếp cận theo hướng đổi mới chính quyền đô thị và áp dụng công nghệ để có các đô thị thông minh.
Tại mỗi khu kinh tế ven biển, cần xây dựng hệ thống thông tin giám sát và đánh giá (M&E - Monitoring and Evaluation) đối với cả phát triển kinh tế và ứng phó với các rủi ro từ tai biến thiên nhiên. Trước hết, xác định các chỉ số để đánh giá phát triển kinh tế, mức độ rủi ro và sự hài lòng của cư dân. Các chỉ số này có thể xác định dựa trên lý thuyết về hệ thống quản lý tích hợp dải ven bờ ICZM. Từ kết quả đánh giá, có thể đưa ra các quyết định điều chỉnh cần thiết đối với phát triển đô thị. Từ các chỉ số, có thể xác định cần thiết phải thu nhận những thông tin gì từ thực tế: có thể thu nhận bằng kỹ thuật thông qua các bộ cảm biến, có thể thu nhận được từ các thông tin quản lý, hay có thể thu nhận từ ý kiến người dân, doanh nghiệp. Mục tiêu của công cụ M&E chỉ là tạo nên một hệ thống mạng thông tin mô tả hoạt động của đô thị theo thời gian thực để đưa ra các quyết định làm cho đô thị có chất lượng cao hơn, chi phí thấp hơn và người dân hài lòng hơn.
TRẦN HÙNG
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2023