Quy hoạch không gian biển - Kỳ vọng một nền kinh tế biển xanh
17/09/2023TN&MTKhác với trên đất liền, trong một vùng biển có thể diễn ra nhiều hoạt động với một mục đích khác nhau như: Quốc phòng - an ninh, phát triển các ngành kinh tế và bảo tồn, bảo vệ giá trị tự nhiên, tài nguyên sinh thái biển,... Thời gian qua, dưới tác động tiêu cực của việc khai thác các ngành kinh tế biển với cường độ cao đã nảy sinh mâu thuẫn giữa các ngành kinh tế biển với nhau, làm suy giảm giá trị và khả năng đáp ứng của các dịch vụ của biển đối với nhu cầu sống còn của con người như: Suy giảm nguồn lợi tài nguyên và đa dạng sinh học, ô nhiễm của môi trường với chủ trương xây dựng một nền kinh tế biển xanh, phát triển hài hòa, kết nối 3 trụ cột của quá trình phát triển bền vững là tăng trưởng cao, đảm bảo ổn định và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường biển cho hôm nay và mai sau. Hiện nay, Bộ TN&MT đã thực hiện việc xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kì 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 với kỳ vọng sẽ giải quyết những mâu thuẫn lâu nay trong cách khai thác tài nguyên và bảo vệ
TS. Lưu Bình Nhưỡng, Phó Trưởng Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Quy hoạch không gian biển sẽ phát triển hài hòa giữa các ngành trong khai thác
Quy hoạch để phát triển không gian biển là một vấn đề rất quan trọng mà Đảng, Nhà nước đánh giá đây là một trong những vấn đề của thế kỷ. Nhưng chúng ta lại chưa tập trung để đánh giá thực trạng về không gian biển, điểm mà chúng ta đưa quy hoạch. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn cơ hội, đó là hiện nay chúng ta đang sửa đổi Luật Đất đai năm 2013. Thì việc sửa đổi Luật Đất đai sẽ là một trong những yếu tố quan trọng để khắc phục những vấn đề mà từ trước nay chúng ta chưa làm.
Việc xây dựng quy hoạch không gian biển quốc gia sẽ thúc đẩy phát triển các ngành mới, giúp tăng thu nhập và tạo công ăn việc làm đặc biệt quy hoạch vùng bờ và quy hoạch không gian biển, mở cơ hội khai thác tiềm năng to lớn về năng lượng gió biển như một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng để đạt mục tiêu về khí hậu của Việt Nam. Quy hoạch vùng bờ cũng sẽ giúp bảo đảm phát triển tối ưu và hài hòa giữa các ngành trong khai thác. Sử dụng tài nguyên ven biển của Việt Nam cũng như đảm bảo bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, giữ gìn các giá trị văn hóa lịch sử, nâng cao khả năng chống chịu cũng như thích ứng với BĐKH.
TS. Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Chính sách phải tạo ra không gian biển phát triển
Khi quyền quốc gia không gian biển được phê duyệt thì các địa phương sẽ có nhiều thuận lợi để giao mặt nước biển như: Giao đất và có sổ và đây là một yếu tố rất quan trọng để các tỉnh thành ven biển phát triển mạnh nghề nuôi biển công nghiệp.
Trước sự quan tâm và kiến nghị của người dân các địa phương về việc hoàn thiện quy hoạch và không gian biển quốc gia, đặc biệt cần quy hoạch mở rộng các khu đô thị biển. Thực hiện luật quy hoạch và Nghị quyết số 22 ngày 24/7/2022 của chính phủ, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có biển triển khai lập quy hoạch không gian biển quốc gia giai đoạn 2021 - 2030 tầm nhìn đến năm 2045, đảm bảo đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định. Quy định quy hoạch được đánh giá là sẽ cụ thể hóa các quan điểm mục tiêu, chủ trương lớn, khâu đột phá và các giải pháp chủ yếu được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng môi trường xanh, bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái biển bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển KT-XH, phát huy các tiềm năng lợi thế của biển và hải đảo, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước. Đến nay, hồ sơ quy hoạch không gian biển quốc gia đã hoàn thành bao gồm: Dự thảo tờ trình của Chính phủ, trình Quốc hội phê duyệt quy hoạch không gian biển quốc gia; dự thảo nghị quyết của Quốc hội về quy hoạch không gian biển quốc gia; báo cáo quy hoạch không gian biển quốc gia; báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của các cơ quan tổ chức cộng đồng dân cư cá nhân về quy hoạch; báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến về quy hoạch không gian biển quốc gia, báo cáo đánh gia môi trường chiến lược quy hoạch không gian biển quốc gia. Hệ thống bản đồ trong bản dự thảo quy hoạch đã chú trọng đến định hướng bố trí không gian phát triển các khu đô thị biển đều xuất tập trung các đô thị ven biển thành trung tâm kinh tế văn hóa xã hội của khu vực đầu tư mở rộng quy mô các đô thị. Dịch vụ du lịch biển nâng cấp bổ sung và hệ thống đô thị loại 2, các đô thị gắn với khu kinh tế ven biển.
PGS. TS. Nguyễn Chu Hồi - Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo (cũ): Sẽ có không ít những khó khăn, hạn chế và bất cập trong việc triển khai thực hiện quy hoạch
Đầu tiên có lẽ là nhận thức hiểu về quy hoạch không gian biển còn khác biệt giữa địa phương, giữa các địa phương và trung ương, thậm chí ngay cả trong những người làm quy hoạch, vì thế việc triển khai cũng sẽ khó khăn. Thứ hai, quy định của quy hoạch không gian biển chỉ ở cấp quốc gia. Vậy, sau khi quy hoạch không gian biển quốc gia được phê duyệt thì địa phương dùng công cụ gì để cụ thể hóa cái không gian biển quốc gia đã giao cho địa phương này. Để nó chia thành những không gian cụ thể hơn và chúng ta còn theo Luật TNMT Biển và Hải đảo, Nghị định số 11/2021/NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Chúng ta còn giao vùng biển cho đến một hộ gia đình, người ta muốn thuê ở vùng biển. Do đó rất cần chi tiết, vậy thì Luật Quy hoạch lại không quy định, có lẽ Bộ TN&MT cần xem xét đến hướng dẫn. Tôi tư vấn rất rõ cho địa phương trong thẩm quyền 6m nước, trong quy định sẽ là được giao các vùng biển cho địa phương và người dân, cho cộng đồng.
Quy hoạch không gian biển đáng nhẽ phải nên đi trước, chúng ta không phải quy hoạch mà là phân vùng, phân vùng dựa vào khách quan, dựa vào nền tảng của hệ sinh thái, dựa vào cái giá trị tài nguyên là vốn thiên nhiên để tăng trưởng xanh, để phát triển kinh tế biển xanh mà chúng ta đang có. Trên cơ sở đó, chúng ta mạnh dạn đưa ra một bức tranh sử dụng chi tiết trong cái vùng biển của địa phương, và khi quy hoạch không gian biển quốc gia ra đời, chúng ta khớp nối lại và điều chỉnh sẽ rất nhanh chứ nếu làm từ đầu có khi 12 năm sau lại phải đi điều tra. Có thể nói rằng, quy hoạch không gian có một phận sự là giải quyết những vấn đề phức tạp, nó xung đột lợi ích thế cho nên muốn giải quyết được vấn đề xung đột phức tạp thì quy hoạch phải hiểu thật đơn giản, chứ nếu quy hoạch lại quá phức tạp, khó hiểu sẽ vừa tốn tiền, tốn thời gian mà nó lại không can thiệp được.
PGS. TS. Vũ Thanh Ca, Nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học và Hợp tác quốc tế - Tổng cục Biển và Hải đảo (cũ): Giải pháp cho quy hoạch phát triển kinh tế biển xanh
Để bảo đảm phát triển kinh tế biển nhanh và bền vững, phù hợp với tiềm năng phát triển kinh tế biển của Việt Nam cần áp dụng phương thức quản lý mới, phương thức quản lý tổng hợp biển và hải đảo theo cách tiếp cận hệ sinh thái hướng tới phát triển một nền kinh tế biển xanh hài hòa lợi ích kinh tế từ các hoạt động kinh tế ngành, khai thác, sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, bảo tồn, bảo vệ TNMT, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học biển. Để đạt được mục tiêu này cần: Sửa đổi Luật TNMT biển, vùng biển và hải đảo và các văn bản dưới luật có liên quan phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam và quốc tế về phát triển kinh tế biển xanh bền vững; xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện Quy hoạch không gian biển, trong đó, phân tích kỹ các chức năng của từng vùng biển và hải đảo để bảo đảm khai thác hiệu quả, có lợi nhất một số chức năng quan trọng trong giới hạn không làm ảnh hưởng tới các chức năng khác và dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, suy thoái, ô nhiễm môi trường, phá hủy các hệ sinh thái biển; nghiên cứu, xây dựng các mô hình quản lý tổng hợp biển và hải đảo, đặc biệt là quản lý tổng hợp vùng bờ. Trong các mô hình này, phải bảo đảm sự điều phối, phối hợp chặt chẽ của tất cả các cấp theo ngành dọc, các cơ quan chức năng cùng cấp và sự tham gia tích cực, chủ động của người dân để bảo đảm các quy định pháp luật về quản lý TNMT biển và vùng bờ biển được thực hiện hiệu quả; thực hiện đúng các quy định về “quản lý thích ứng”, trong đó bảo đảm các chính sách, mô hình quản lý luôn được đánh giá, điều chỉnh sau mỗi chu trình quản lý để bảo đảm sát thực và hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng và đưa vào áp dụng trên diện rộng các mô hình cộng đồng tham gia bảo tồn khai thác và sử dụng bền vững các hệ sinh thái biển. Thực tế cho thấy, khi có sự tham gia quản lý của cộng đồng sẽ bảo đảm khai thác, sử dụng bền vững, hiệu quả tài nguyên và môi trường biển. Mô hình cộng đồng tham gia bảo tồn, khai thác và sử dụng bền vững các hệ sinh thái biển đã được áp dụng thành công ở một số địa phương, ví dụ như rừng dừa nước ven sông Hoài ở Hội An, khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm,… Các mô hình này cần được nghiên cứu, nhân rộng. Đặc biệt, cần xây dựng cơ chế để người dân được tạo điều kiện tham gia và trực tiếp hưởng lợi từ quá trình quản lý.
Việt Nam đã thành công trong việc áp dụng mô hình cộng đồng xóa đói, giảm nghèo thông qua việc giám sát cộng đồng đối với nguồn vốn vay xóa đói, giảm nghèo từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Mô hình xóa đói, giảm nghèo dựa vào cộng đồng của Việt Nam có thể được nghiên cứu, áp dụng để xây dựng mô hình cộng đồng tham gia bảo tồn, khai thác và sử dụng bền vững các hệ sinh thái biển.
Thứ ba, bảo vệ đa dạng sinh học, nguồn lợi cá biển bằng nghề cá bền vững. Các nghiên cứu cho thấy, đánh bắt quá mức bằng các hình thức hủy diệt là nguyên nhân chính gây suy giảm nguồn lợi cá biển Việt Nam. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện một cách hiệu quả các chính sách, quy định pháp luật về phát triển nghề cá bền vững, chống đánh bắt hủy diệt, đánh bắt trái phép. Cần triển khai thực hiện việc cấm biển tại các khu vực phù hợp theo thời gian và xây dựng kế hoạch chuyển đổi, bảo đảm sinh kế cho ngư dân.
THU LOAN
Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 16 (Kỳ 2 tháng 8 năm 2023)