Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản trong bối cảnh mới
05/02/2023TN&MTQuy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản sẽ mang tính chất định hướng các nhiệm vụ về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
Vai trò rất cấp thiết và quan trọng
Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản sẽ mang tính chất định hướng các nhiệm vụ về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản. Cụ thể, điều tra, đánh giá, khoanh định khu vực có khoáng sản độc hại, khu vực có dị thường phóng xạ tự nhiên cao để có giải pháp bảo vệ, phòng ngừa. Đồng thời, tăng cường công tác điều tra địa chất môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực có dự án chế biến khoáng sản quy mô lớn, tập trung nhằm khoanh định xác định nguyên nhân, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm, ảnh hưởng xấu đến tài nguyên đất, nước, không khí và đề xuất giải pháp phòng ngừa.
ảnh minh họa
Ngoài ra, quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản nghiên cứu, đánh giá cấu trúc địa chất thuận lợi để “chôn cất”, lưu giữ khí nhà kính và các loại chất thải; tăng cường công tác điều tra tai biến địa chất tại khu vực miền núi, khu vực ven biển, khoanh định cảnh báo các khu vực có nguy cơ trượt lở, tai biến địa chất và có giải pháp phòng ngừa thích hợp.
Quy hoạch cũng nghiên cứu, phát hiện, điều tra đánh giá khoáng sản làm nguyên vật liệu thay thế khoáng sản đang có nguy cơ cạn kiệt, hoặc nguyên liệu thay thế; nghiên cứu sử dụng tổng hợp tài nguyên, khai thác không bãi thải. Nghiên cứu, điều tra đánh giá môi trường địa chất khu vực có dự án khai thác, chế biến khoáng sản quy mô lớn, tập trung, có nguy cơ suy thoái, ô nhiễm môi trường để có định hướng công tác cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác mỏ (đóng cửa mỏ).
Xác định nhiệm vụ trọng điểm
Các nhiệm vụ điều tra địa chất môi trường tập trung vào 3 nội dung: Điều tra khoáng sản độc hại; Ô nhiễm môi trường phóng xạ; Ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản.
Cụ thể, điều tra, đánh giá về tài nguyên địa chất, tai biến địa chất phục vụ xây dựng các kịch bản ứng phó biến đổi khí hậu, nước biển dâng khu vực đồng bằng sông Cửu Long và các đô thị ven biển; đánh giá tiềm năng cấu trúc địa chất để lưu giữ khí nhà kính và các loại chất thải.
Lập bản đồ Địa chất Đệ tứ tỷ lệ 1:50.000 đi kèm bản đồ địa chất công trình - địa chất thủy văn phục vụ công tác quy hoạch sử dụng đất; đánh giá các di sản địa chất phục vụ việc bảo tồn.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên tại cuộc họp thẩm định nhiệm vụ lập Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ lập bản đồ địa chất khu vực ĐBSCL, khu vực dự báo bị ảnh hưởng, tác động do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, trong đó, tập trung nghiên cứu địa chất Đệ tứ, địa mạo, địa chất công trình, kiến tạo - địa động lực, nhằm xác định cấu trúc tầng đất đá, độ ổn định nền móng, khả năng chứa, thấm, thoát nước khu vực để có giải pháp phòng ngừa, ứng phó với hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống sạt lở, xâm nhập mặn.
Đồng thời, tăng cường công tác điều tra tai biến địa chất tại khu vực miền núi, khu vực ven biển, khoanh định cảnh báo các khu vực có nguy cơ trượt lở, tai biến địa chất và có giải pháp phòng ngừa thích hợp.
Bên cạnh việc đưa ra định hướng nhiệm vụ điều tra địa chất phục vụ bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cũng dự báo bối cảnh kinh tế - xã hội trong thời kỳ Quy hoạch; dự báo nhu cầu sử dụng thông tin, dữ liệu địa chất khoáng sản của ngành công nghiệp khai khoáng; dự báo nhu cầu sử dụng thông tin, dữ liệu địa chất khoáng sản của ngành xây dựng kết cấu hạ tầng…
Nhiều đề tài nghiên cứu đạt kết quả nhất định
Đến nay, đã có nhiều đề tài, dự án điều tra địa chất môi trường được tiến hành và đã thu được một số kết quả nhất định. Có thể kể đến Đề án khoanh định diện tích chứa khoáng sản độc hại và đánh giá khả năng ảnh hưởng môi trường trên lãnh thổ Việt Nam (phần đất liền) năm 2014 đã khoanh định được các diện tích chứa khoáng sản độc hại; các diện tích có nguy cơ ô nhiễm khoáng sản độc hại trên các mỏ, điểm khoáng sản độc hại thuộc 28 tỉnh: Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Tây Nam Hà Nội, Hòa Bình, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Cán bộ địa chất & khoáng sản đang chụp mẫu đá để nghiên cứu
Hay nhiệm vụ "Quan trắc thường xuyên môi trường phóng xạ các mỏ khoáng sản giai đoạn 2009 - 2020" đã xác lập được hiện trạng cũng như sự biến động các thành phần môi trường, trong đó đáng lưu ý đối với các mỏ phóng xạ và mỏ đất hiếm chứa phóng xạ là những loại hình khoáng sản có hàm lượng các nguyên tố phóng xạ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát tán các chất phóng xạ ra môi trường; thành lập 01 cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường phóng xạ. Cơ sở dữ liệu có khả năng tích hợp, lưu trữ toàn bộ các thông tin liên quan đến công tác quan trắc, tổng hợp thông tin, xây dựng đồ thị đối với từng thành phần quan trắc; trích dẫn, chiết xuất thông tin và bổ sung các thông tin mới, mới rộng (không gián hạn) đối tượng quản lý trên CSDL. Trên cơ sở đó đã cập nhật các dữ liệu được quan trắc trên 27 trạm quan trắc từ năm 2009 đến 2020 để quản lý, lưu trữ.
Các Đề án đánh giá chi tiết các diện tích có nguy cơ ô nhiễm môi trường phóng xạ trên địa bàn các tỉnh Nghệ An và Cao Bằng, vùng Tây Bắc Việt Nam, hoàn thành năm 2020, đã bàn giao tài liệu cho chính quyền địa phương có các khu vực, diện tích chứa khoáng sản độc phóng xạ có khả năng phát tán, gây hại để quản lý, quy hoạch và phát triển bền vững kinh tế xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất.
Giai đoạn 1 của Đề án "Xây dựng bộ bản đồ môi trường phóng xạ tự nhiên tỷ lệ 1/250.000 cho toàn bộ lãnh thổ Việt Nam” đã chi tiết cho một số khu vực trọng điểm: Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Thuận" hoàn thành năm 2020. Từ kết quả này đã thành lập được bộ Bản đồ vị trí và giá trị các thành phần phóng xạ môi trường, Bản đồ đẳng trị suất liều gamma ngoài trời (độ cao 1m và sát mặt đất), Bản đồ đẳng trị nồng độ radon ngoài trời (độ cao 1m và sát mặt đất). Kết quả thu được là tài liệu điều tra về môi trường phóng xạ, giúp cho các nhà quản lý, bảo vệ môi trường có cái nhìn tổng quát về môi trường phóng xạ thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Ninh Thuận làm cơ sở hoạch định đường lối chiến lược bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc điều tra mới dừng lại ở một số mỏ, phạm vi còn hạn chế, cần tiếp tục điều tra tại các mỏ đang khai thác, dừng khai thác để có những cảnh báo, đề xuất cụ thể các biện pháp ngăn chặn, phòng tránh, giảm thiểu tác hại của chúng.
Trong lĩnh vực địa chất môi trường, các nghiên cứu địa chất phục vụ cho y học ở nước ta (sử dụng một số loại đất đá, quặng để phòng bệnh, chữa bệnh; nguy cơ nhiễm bệnh do phóng xạ, nguyên tố độc hại) hầu như còn bỏ ngỏ, chưa có sự đầu tư, nghiên cứu để đánh giá ở nước ta có tiềm năng hay không. Đây là vấn đề cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu trong bối cảnh mới hiện nay.
Diệp Anh