QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIỂN, ĐẢO: Nhiệm vụ mang tính chiến lược của nước ta
12/08/2022TN&MTQuản lý nhà nước về phát triển kinh tế biển là yếu tố không thể thiếu ở cấp quốc gia và ở các địa phương. Thời gian qua, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc quản lý nhà nước về phát triển kinh tế biển ở nước ta đang đặt ra không ít khó khăn, thách thức. Những khó khăn, thách thức đó nếu không sớm được khắc phục, sẽ trở thành rào cản lớn đối với tiến trình phát triển kinh tế biển của nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải có những giải pháp quản lý đồng bộ, đưa kinh tế biển phát triển nhanh, bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam - Ủy ban Biên giới quốc gia đẩy mạnh hợp tác trong quản lý nhà nước về biển và hải đảo
Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển kinh tế biển
Về xây dựng chủ trương chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế biển (KTB), Hội nghị Trung ương 8, Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược PTBV KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững (PTBV) KTB. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Chính phủ đã kịp thời xây dựng Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm về phát triển bền vững KTB. Các bộ, ngành đã xây dựng các đề án, dự án, nhiệm vụ để triển khai Chiến lược trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, kế hoạch tài chính NSNN giai đoạn 2021 - 2025. Các địa phương ven biển đã xây dựng quy hoạch phát triển KTB cơ bản có tính thống nhất, đồng bộ và nhất quán, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn; có sự điều tra, nghiên cứu cơ bản, chi tiết.
Hệ thống luật pháp về KTB ngày càng được kiện toàn, bao phủ được các lĩnh vực KTB, như: Luật Đa dạng sinh học (2008); Luật Dầu Khí (2008); Luật Biển Việt Nam (2012); Luật TNN (2012); Luật BVMT (2014); Luật TN, MT biển và Hải đảo (2015); Luật Quy hoạch (2017); Luật Thủy sản (2017); Luật Du lịch (2017); Luật BVMT sửa đổi (2020),… Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của biển và phát triển các ngành KTB, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Về tổ chức bộ máy QLNN về phát triển KTB ở nước ta được chia thành 2 bộ phận chủ yếu, đó là: Cơ quan quản lý khai thác tài nguyên biển theo ngành và cơ quan quản lý tổng hợp về khai thác tài nguyên biển. Hai bộ phận này được tổ chức đồng bộ từ trung ương đến các địa phương có biển; trong đó có sự phân công, phân cấp về vai trò trách nhiệm quản lý giữa các cơ quan trong hệ thống dựa trên nguyên tắc: “kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ”.
Ở Trung ương, Chính phủ QLNN thống nhất trên các vùng biển Việt Nam. Chính phủ đã giao Bộ TN&MT thực hiện chức năng quản lý tổng hợp về TN, MT biển và hải đảo, thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam. Ngoài ra, để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 06/2/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 203/QĐ-TTg ngày 06/2/2020 về việc thành lập Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ở địa phương, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ven biển được Chính phủ cho phép thành lập các Ban Chỉ đạo biển, đảo cấp tỉnh. Hiện nay, trong 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển, có 14 chi cục và 14 phòng quản lý về biển, đảo. Cơ cấu tổ chức về quản lý phát triển KTB đã từng bước được kiện toàn. Đội ngũ cán bộ, công chức tham gia quản lý phát triển KTB cơ bản đáp ứng đủ về số lượng, với cơ cấu, chất lượng phù hợp.
Về tổ chức thực hiện QLNN phát triển KTB, Chính phủ và các địa phương đã đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chính sách của chính quyền địa phương về phát triển KTB; tập trung nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về phát triển các ngành KTB có thế mạnh, như: Cảng biển, du lịch, dịch vụ; nuôi trồng, đánh bắt hải sản; khu kinh tế ven biển. Trên cơ sở quy định chung của Nhà nước, các địa phương ven biển đã xây dựng nhiều chính sách thu hút các nguồn lực, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào phát triển KTB.
Thực tế cho thấy, các tỉnh, thành phố ven biển đang trở thành điểm sáng trong thu hút FDI của cả nước, điển hình như Hải Phòng, Quảng Ninh đã lọt vào top 10 về thu hút vốn FDI trong năm 2021. Riêng tại TP. Hải Phòng, đã thu hút 5,26 tỷ USD vốn FDI, gấp gần 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2020, dẫn đầu cả nước.
Đồng thời, các địa phương ven biển đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KTB như: Chính sách đất đai xây dựng khu công nghiệp, xây dựng hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, đường, trường, trạm,… phục vụ phát triển KTB. Từ những chính sách đồng bộ, hiệu quả, KTB đã có bước phát triển khởi sắc. Hiện nay, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47 - 48% GDP cả nước, trong đó, GDP của kinh tế thuần biển đạt khoảng 20 - 22% tổng GDP cả nước.
Về thanh tra, kiểm tra, xử lý các vấn đề nảy sinh trong phát triển KTB, trong những năm gần đây, hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý các vấn đề nảy sinh trong phát triển KTB bước đầu đạt được những hiệu quả tốt. Mục tiêu của hoạt động này nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về phát triển KTB và BVMT biển, hải đảo. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện những tồn tại, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị cơ quan QLNN có thẩm quyền ban hành, sửa đổi các quy định của pháp luật có liên quan đến phát triển KTB, đảm bảo phù hợp thực tiễn. Chính phủ và các địa phương đã tập trung phòng ngừa, xử lý ô nhiễm, sự cố môi trường biển từ các hoạt động kinh tế; giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của các chương trình, dự án đầu tư thuộc lĩnh vực KTB theo quy định.
Bên cạnh những thành tựu cơ bản, hoạt động QLNN về phát triển KTB còn những hạn chế, bất cập. Chiến lược và quy hoạch phát triển KTB của các khu vực biển và của từng địa phương chưa tạo được sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau. Hệ thống các cơ chế, chính sách, quy hoạch quản lý biển, đảo chưa thực sự “thống nhất, cân đối, hài hòa giữa các mục tiêu KT-XH và môi trường”.
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quản lý phát triển KTB còn hạn chế. Cơ cấu tổ chức trong công tác quản lý biển và hải đảo tại các địa phương chưa có sự thống nhất. Nguồn nhân lực tham gia vào quá trình quản lý còn nhiều bất cập về số lượng, năng lực và kinh nghiệm do chưa có sự đầu tư chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực. Các quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực KTB chưa được ban hành đầy đủ, dẫn đến việc thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, kiểm soát còn nhiều bất cập.
Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), mỗi năm Việt Nam xả ra đại dương từ 0,28 đến 0,73 triệu tấn rác thải nhựa (chiếm 6% toàn thế giới), đứng thứ 4 thế giới. Gia tăng rác thải không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng môi trường, hệ sinh thái, mà còn tác động đến phát triển kinh tế, cộng đồng dân cư ven biển; tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, an ninh lương thực.
Một số giải pháp cần thực hiện
Việc hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTB là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực này. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương có liên quan cần chủ động rà soát, bổ sung và xây dựng mới đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển, đảo theo hướng quản lý tổng hợp, phù hợp với thực tiễn. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về PTBV về KTB phải đảm bảo tập trung, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả; trong đó chú trọng vào những lĩnh vực cần phải được khuyến khích phát triển, tạo động lực lan tỏa cho phát triển KT-XH, nhất là ưu tiên các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, đảm bảo phù hợp với khả năng cân đối, huy động nguồn lực trong điều kiện và tình hình mới, tránh dàn trải để việc tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách có tính khả thi và đạt kết quả cao nhất.
Muốn quản lý phát triển KTB một cách hiệu quả, cần phải thực hiện tốt các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên biển và hải đảo. Bộ TN&MT rất cần có sự phối hợp đồng bộ với các lực lượng liên quan triển khai có hiệu quả Quyết định số 28/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản TN, MT biển và hải đảo đến năm 2030; chú trọng điều tra tổng hợp điều kiện tự nhiên, KT-XH, sinh thái biển, nhằm có được các số liệu, dữ liệu về khí tượng, hải văn, môi trường, các nguồn tài nguyên trong lòng biển để phục vụ quy hoạch phát triển KTB và khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển.
Các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện công tác QLNN trên các lĩnh vực KTB, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả tốt nhất. Chú trọng kiểm soát chặt chẽ công tác BVMT khi thẩm định dự án đầu tư phát triển KTB và toàn bộ quá trình hoạt động của dự án. Nâng cao chất lượng thẩm định đánh giá tác động môi trường, thực hiện nghiêm việc xác nhận hoàn thành công trình BVMT trước khi đi vào vận hành chính thức. Tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, đánh giá đầu tư, để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm trong đầu tư, xây dựng, nhất là các dự án lớn, trọng điểm, các dự án trong địa bàn khu kinh tế ven biển.
Phát triển nhân lực là một nội dung rất quan trọng đã được xác định trong Chiến lược phát triển bền vững KTB. Nhân lực KTB không chỉ là các nhà kinh tế, họ còn là các nhà khoa học, những người làm công nghệ bởi đây là ngành vừa khai thác vừa sử dụng biển, quản lý biển, trong đó cần kể đến những người lao động ở các lĩnh vực như: Thủy sản, dầu khí,... Nhìn vào lực lượng này có thể thấy số lượng nhân lực ngành này không ít, nhưng theo khảo sát thực tế, nhân lực chất lượng cao của ngành này còn hiếm. Vì vậy, Bộ GD&ĐT cần chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai rà soát các đề án phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú trọng phát triển nguồn nhân lực biển thông qua đào tạo (đại học và trên đại học), dạy nghề, xây dựng cơ sở đào tạo và các chương trình đào tạo nhân lực cho quản lý, khai thác biển.
Việc tăng cường liên kết vùng trong phát triển KTB cần được thực hiện một cách đồng bộ từ thể chế đến hạ tầng, đào tạo nhân lực, phân công lao động và sản xuất,… để tối ưu hóa phương án đầu tư, tránh tình trạng cạnh tranh giữa các địa phương. Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững KTB. Tăng cường năng lực thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ QLNN tổng hợp và thống nhất về biển, đảo. Đồng thời, cần thực thi hiệu quả các điều uớc quốc tế về biển mà Việt Nam là thành viên. Phối hợp với các nước có thế mạnh về khoa học biển trong hợp tác, nghiên cứu xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiên tiến, xuất sắc. Chủ động tham gia tích cực các hoạt động quốc tế trong khuôn khổ Thập kỷ của Liên hợp quốc về khoa học biển vì sự PTBV giai đoạn 2021 - 2035.
PHÙNG THỊ THÙY LINH