Quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ tài nguyên, môi trường trong xây dựng đất nước thời kỳ hội nhập
20/11/2024TN&MTBảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; đầu tư cho bảo vệ tài nguyên, môi trường (TNMT) là đầu tư cho sự phát triển bền vững; tăng cường bảo vệ tài nguyên và môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ rất quan trọng được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội XIII xác định quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai bão lũ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Ảnh hưởng của môi trường đến sự phát triển
Ngày nay, ô nhiễm môi trường (ONMT), biến đổi khí hậu (BĐKH) toàn cầu đã tác động mạnh mẽ, gây ra nhiều ảnh hưởng, thiệt hại đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Liên hợp quốc đã có nhiều chương trình toàn cầu về BVMT và ứng phó với BĐKH. Nước ta nằm ở vị trí chịu tác động nghiêm trọng của các yếu tố biến đổi môi trường, BĐKH. Vấn đề ONMT vốn đã chịu sức ép từ lịch sử chiến tranh, lại phải đối mặt với các vấn đề nảy sinh từ quy mô dân số gần 100 triệu dân, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các thách thức phi truyền thống đến từ BĐKH, dịch bệnh, bão lũ khiến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn.
Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đang ngày càng trở nên nghiêm trọng với những biểu hiện cụ thể về ô nhiễm nước, bao gồm nước mặt, nước ngầm và nước biển; ô nhiễm đất, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn; suy giảm về độ che phủ và rừng đầu nguồn dẫn đến khả năng bảo tồn và duy trì tài nguyên nước ngầm suy giảm và gia tăng hạn hán, đặt ra nhiều thách thức trong phòng hộ phòng, tránh thiên tai. Các hệ sinh thái bị suy giảm như hệ sinh thái rừng, rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, sinh thái biển,… dẫn đến suy thoái đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái. ONMT dẫn đến các vấn đề về cạn kiệt nguồn tài nguyên, gia tăng an ninh lương thực, an ninh sinh thái, an ninh môi trường xuyên biên giới, tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường,... Đây là một vấn đề có tính thách thức toàn cầu. Đảng ta chỉ rõ: “…khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra,… tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng nhanh; đặc biệt BĐKH, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp,… ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của đất nước”1.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về BVMT để xây dựng, phát triển đất nước thời hội nhập
Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3/6/2013, “về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&BVMT”. Trên cơ sở đánh giá thực trạng môi trường và công tác BVMT đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu tổng quát, trong đó thể hiện quan điểm chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&BVMT là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; môi trường là vấn đề toàn cầu. BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững. Tăng cường BVMT phải theo phương châm ứng xử hài hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ONMT, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững.
Nghị quyết số 24-NQ/TW đã chỉ rõ 3 nhóm nhiệm vụ BVMT trong thời kỳ hội nhập: Một là: Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ONMT; Hai là: Khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của người dân, hạn chế tác động do ONMT đến sức khỏe của nhân dân; Ba là: Bảo vệ, phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Cùng với đó là 5 nhóm giải pháp đột phá: (1). Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với BĐKH, sử dụng tiết kiệm TN&BVMT; (2). Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT; (3). Tăng cường QLNN về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên, BVMT; (4). Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT; (5). Coi trọng hợp tác, hội nhập quốc tế về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, một hệ thống các quan điểm về quản lý tài nguyên, BVMT của Đảng ta đã thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt. Qua các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng đã tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các quan điểm, chủ trương cho phù hợp với từng bối cảnh phát triển đất nước và thời đại; đồng thời ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về quản lý TN&BVMT.
Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị khóa IX ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về “BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tiếp tục nhấn mạnh: “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển KT-XH, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”, “BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững”.
Kế thừa các quan điểm trước đó, Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ BVMT là nội dung quan trọng trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong thời gian tới. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển kinh tế luôn gắn kết với BVMT trong từng bước và từng chính sách phát triển. Văn kiện Đại hội XIII cũng đề cập đến BVMT ở một số lĩnh vực, nội dung cụ thể, như BVMT ở nông thôn; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia BVMT, thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức BVMT,... Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết và định hướng phát triển giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2045, Đảng ta nhấn mạnh: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với BĐKH, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy BVMT sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ONMT, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”2.
Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả quản lý TN&BVMT trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế
Thứ nhất, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội về BVMT. Đây là giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác giáo dục về quản lý TN&BVMT, nâng cao nhận thức về vai trò của bảo vệ TNMT. Nâng cao nhận thức của các cấp, ngành về vai trò của môi trường trong phát triển. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BVMT tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế ít chất thải, các-bon thấp,… theo hướng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền phù hợp từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương. Tuyên truyền, tạo ý thức của cộng đồng trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, năng lượng,... Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đào tạo, truyền thông về môi trường; cung cấp thông tin kịp thời về BVMT trên các phương tiện thông tin truyền thông đại chúng. Thực hiện chương trình truyền thông mạnh mẽ để tạo thành phong trào BVMT, nhất là trong phân loại rác thải tại nguồn, hạn chế sử dụng nhựa, túi nilon khó phân hủy, sử dụng một lần. Đẩy mạnh công tác xây dựng chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề, phóng sự về môi trường. Phát hiện, nêu gương, tạo được phong trào, nhân rộng các điển hình, khu vực, mô hình, cách làm hay, làm tốt về quản lý TN&BVMT; thúc đẩy các nhân tố tích cực, điển hình, tiên tiến, điểm sáng, khu vực, địa bàn, lĩnh vực điển hình về công tác BVMT.
Thứ hai, thể chế hóa chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý TN&BVMT. Các bộ, ngành, địa phương cần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp với đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản trị môi trường. Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về BVMT theo định hướng: Một là: Đẩy mạnh áp dụng cơ chế, chính sách mới mang tính đột phá, tạo nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít chất thải, kinh tế ít các-bon; Hai là: Khắc phục các chồng chéo, xung đột, bổ sung các quy định mới, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ và đầy đủ của hệ thống pháp luật về BVMT; Ba là: Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị trong việc tham gia vào các hoạt động BVMT, từ hoạch định chính sách đến tổ chức, giám sát thực hiện; Bốn là: Thể chế hóa các cam kết quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia; Năm là: Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong BVMT.
Thứ ba, tăng cường năng lực quản lý nhà nước và thực thi chính sách, pháp luật về BVMT từ Trung ương đến địa phương. Đây vừa là định hướng vừa là giải pháp quan trọng để các cấp các ngành chú trọng kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về BVMT từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường đầu tư cho phát triển đội ngũ cán bộ các cấp có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để thực thi công vụ trong công tác BVMT. Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về BVMT thông qua nâng cao tính nghiêm khắc của các biện pháp xử lý vi phạm; áp dụng hiệu quả các công cụ kinh tế; tăng cường cung cấp, công khai, minh bạch thông tin môi trường; và thúc đẩy vai trò giám sát của cộng đồng trong BVMT. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giám sát thực thi chính sách và pháp luật về BVMT trong các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là đối với doanh nghiệp. Tăng cường chia sẻ thông tin, minh bạch trong BVMT, đặc biệt là thông tin về quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, trong khai thác khoáng sản, kiểm soát ONMT,... Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp và cộng đồng trong việc phản biện chính sách; giám sát, phát hiện vi phạm pháp luật về môi trường; xây dựng và nhân rộng các mô hình BVMT.
Thứ tư, tích cực huy động và ưu tiên nguồn đầu tư cho công tác bảo vệ TNMT. Huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, trong đó chú trọng phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khai thác hiệu quả nguồn lực của khu vực tư nhân cho BVMT. Tăng dần ngân sách cho BVMT phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng cường sử dụng hiệu quả nguồn lực trong BVMT. Xây dựng cơ chế đột phá nhằm huy động nguồn đầu tư từ xã hội cũng như từ Nhà nước cho công tác BVMT. Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp môi trường, xử lý ô nhiễm, quản lý chất thải, cung cấp dịch vụ BVMT. Đa dạng hóa nguồn tài chính cho công tác BVMT. Ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, hỗ trợ cho việc phát triển công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện KT-XH, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong BVMT. Đây vừa là giải pháp vừa là yêu cầu chủ động và tận dụng các cơ hội của quá trình hội nhập, và mở rộng hợp tác quốc tế về BVMT. Tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho các dự án BVMT. Ưu tiên các nguồn vốn ODA không hoàn lại trong việc nâng cao năng lực, chuyển giao khoa học - công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Ưu tiên và đầu tư mạnh mẽ cho công tác nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ tiên tiến ứng dụng vào quản lý và BVMT hiệu quả. Áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến và hiện đại trong xử lý rác thải ở Việt Nam trong những năm tới. Ứng dụng công nghệ thông tin, internet kết nối vạn vật và trí tuệ nhân tạo vào phát triển cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường quốc gia thống nhất và đồng bộ. Nhà nước khuyến khích áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến nâng cao năng lực quản lý môi trường, dự báo và cảnh báo sớm ONMT cấp tỉnh, vùng và liên vùng. Quan tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào việc dự báo khí hậu, giám sát môi trường. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào việc chế biến, xử lý rác thải, nước thải. Sớm bổ sung cơ chế, chính sách, tạo môi trường cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư chế biến, xử lý rác thải, nước thải. Khuyến khích ứng dụng công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng, nước sạch và sử dụng lại chất thải trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khuyến khích và hỗ trợ phát triển loại hình, mô hình sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường.
——————————-
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 162;
(1) (2) (3) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQG-ST, Hà Nội, 2021, tr.107-108, tr. 66, 86-87; tr. 219-220; tr.276;
(4) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.2, tr.330-331; tr.328.
Đại tá, PGS, TS. KHQS. TRẦN NAM CHUÂN
Nguyên Cán bộ Viện Chiến lược Quốc phòng, Bộ Quốc phòng
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17 (Kỳ 1 tháng 9) năm 2024