Pháp luật quan trắc môi trường ở một số nước ASEAN và Việt Nam hiện nay
08/10/2021TN&MTQuan trắc môi trường giúp theo dõi sát sao những biến đổi của môi trường, tránh được những nguy cơ gây ô nhiễm hay suy thoái môi trường, cũng như đưa ra các biện pháp kịp thời đối với những vùng môi trường có nguy cơ cao ô nhiễm. Trong khu vực ASEAN, các quốc gia như: Singapore, Thái Lan, Malaixia rất coi trọng công tác quan trắc môi trường. Bài báo này giới thiệu đôi chút về pháp luật quan trắc môi trường ở các quốc gia nói trên và có liên hệ với ở Việt Nam.
Ảnh minh họa
Kinh nghiệm của một số quốc gia ASEAN
Singapore: Pháp luật về quan trắc môi trường (QTMT) được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như trong các chương trình QTMT quốc gia, các kế hoạch QTMT nhằm xác định nguồn ô nhiễm đối với từng thành phần môi trường. Thông thường, các hoạt động quan trắc thuộc trách nhiệm của người sở hữu hoặc chiếm giữ bất kỳ hoạt động xả thải ra môi trường. Trong hoạt động quan trắc đối với chất lượng môi trường không khí, mục tiêu của chương trình này là nhằm đánh giá tất cả các vấn đề về ÔNMT không khí; xu hướng QTMT nhằm kịp thời đưa ra các quyết định nhằm ngăn chặn các nguyên nhân gây ô nhiễm và đánh giá một cách chính xác và hiệu quả các chương trình kiểm soát ô nhiễm.
Chính phủ Singapore đã ban hành các đạo luật về môi trường như: Luật Quản lý và BVMT năm 1999, sửa đổi năm 2002, được coi là một đạo luật khung, một loạt các văn bản liên quan đến pháp luật môi trường được ban hành, gồm: Luật Không khí sạch, Luật Chất thải nguy hại, Luật Hệ thống thoát nước, Luật về Môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Cơ quan môi trường quốc gia Singapore có bộ phận trực thuộc, trong đó có Cục BVMT và Cục Sức khỏe cộng đồng có vai trò quan trọng trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát môi trường, trong đó có hoạt động QTMT bao gồm: QTMT sống nói chung, thực thi đa dạng việc kiểm soát môi trường; quản lý các công cụ kiểm soát môi trường trong các dự án phát triển và xây dựng nhà máy; thực hiện và kiểm soát các các công cụ xử lý chất thải và ban hành các giấy phép; kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm; hợp tác môi trường với các nước láng giềng và mới bổ sung thêm nhiệm vụ dự báo thời tiết.
Singapore coi trọng cơ chế tự kiểm soát hoạt động gây ÔNMT của các doanh nghiệp hoặc cơ sở sản xuất kinh doanh là chủ nguồn gây ô nhiễm. Luật về quản lý và BVMT quy định Tổng cục trưởng Cục BVMT thông báo bằng văn bản yêu cầu chủ sở hữu hoặc sử dụng của cơ sở sản xuất có nguồn gây ô nhiễm không khí, thải chất thải hoặc chất độc hại ra môi trường không khí, hệ thống thoát nước công cộng, ra đất, cống rãnh hoặc nước nội địa để lắp đặt thiết bị quan trắc phù hợp tại bất kỳ điểm nào dọc theo khu vực xả thải để theo dõi chất lượng hoặc số lượng phát thải.
Ngoài ra, chủ các cơ sở có các thiết bị quan trắc này phải đảm bảo các yêu cầu, như các thiết bị hoặc hệ thống quan trắc đó phải đang hoạt động đúng cách và hiệu quả; phải lưu trữ hồ sơ của tất cả các kết quả quan trắc và đệ trình các hồ sơ đó cho Tổng cục trưởng nếu có yêu cầu.
Thái Lan: Luật Tăng cường và bảo vệ chất lượng môi trường quốc gia B.E. 2535 (2018) quy định về hoạt động QTMT. Luật này điều chỉnh hầu hết mọi vấn đề liên quan đến BVMT, trong đó có nội dung về QTMT. Theo đó, hoạt động QTMT được tiến hành khi xác định khu vực kiểm soát ô nhiễm gồm các bước: (1) Khảo sát và thu thập số liệu liên quan đến các điểm ô nhiễm trong phạm vi khu vực kiểm soát ô nhiễm; (2) Lập bảng danh mục chỉ ra số lượng, chủng loại và kích cỡ của các điểm nguồn ô nhiễm trên cơ sở khảo sát và thu thập dữ liệu; (3) Nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình trạng ô nhiễm, phạm vi, tính chất, mức độ nghiêm trọng của vấn đề và các tác động đến chất lượng môi trường nhằm xác định các biện pháp giảm thiểu và xử lý ô nhiễm thích hợp và cần thiết trong khu vực kiểm soát ô nhiễm.
Theo Luật nói trên, thẩm quyền quản lý các hoạt động liên quan môi trường thuộc về Ban Môi trường quốc gia. Ban này có quyền hạn và trách nhiệm: Quy định tiêu chuẩn chất lượng môi trường (Điều 32); xem xét và phê duyệt Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường (Điều 35); xem xét và phê duyệt kế hoạch hành động phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm nghiêm trọng do Ủy ban kiểm soát ô nhiễm đề xuất (Điều 53); xem xét và phê duyệt các tiêu chuẩn phát thải hoặc nước thải do Bộ trưởng Bộ TN&MT đề xuất (Điều 55).
Malaysia: Hoạt động QTMT được quy định trong các chương trình quan trắc với từng loại môi trường không khí, nước sông, nước biển và nước bề mặt. Chương trình QTMT nước nhằm thực hiện các yêu cầu của Bộ Môi trường để báo cáo hàng năm về chất lượng môi trường; phân loại tài nguyên môi trường; sưu tập cơ sở dữ liệu về môi trường: Thu thập các dữ liệu cần thiết về chất lượng nước tự nhiên để chỉ ra những thay đổi trong thời gian dài có thể tác động đến việc sử dụng nước và quy hoạch hiện tại. Chương trình được bắt đầu thực hiện vào năm 1978 nhằm phát hiện những thay đổi về chất lượng nước sông và từ đó cũng xác định nguồn nước gây ô nhiễm. Chương trình QTMT không khí được xây dựng từ năm 1977 trên cơ sở Luật về chất lượng môi trường không khí. Mục tiêu của QTMT không khí là nhằm xác định mức độ đại diện ở các khu vực có mật độ dân số cao; xác định mức độ ô nhiễm tối đa trong các khu vực đông dân cư; xác định nồng độ chất gây ô nhiễm gần ngành công nghiệp trọng điểm; xác định xu hướng ô nhiễm không khí; phát triển cơ sở dữ liệu cho chiến lược kiểm soát ô nhiễm trong tương lai. Sau khoảng thời gian 3 năm, các công cụ QTMT ngày càng phát triển và máy lấy mẫu liên tục tự động đã chính thức được sử dụng để đo đạc các thành phần môi trường vào năm 1980. Từ đó đến nay, pháp luật về QTMT luôn được bổ sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác BVMT.
Như vậy, có thể nhận thấy tại các nước Singapore, Thái Lan, hay Malaysia, hoạt động QTMT được quy định rải rác ở các điều khoản khác nhau, không quy định thành một chương riêng giống như Việt Nam. Pháp luật về QTMT được quy định chủ yếu trong các chương trình, kế hoạch quốc gia về QTMT. Ngoài ra, căn cứ vào từng thành phần môi trường và mức độ ưu tiên quan tâm của từng quốc gia, mỗi quốc gia đều ban hành các đạo luật riêng về quản lý chất lượng môi trường. Trong các đạo luật này, các quy định về hoạt động QTMT cũng được điều chỉnh ở những mức độ nhất định. Điểm chung của pháp luật về QTMT ở ba nước là đều có quy định cho phép sự tham gia của khu vực tư tham gia hoạt động dịch vụ quan trắc; thẩm quyền quản lý chung về hoạt động QTMT đều được trao cho Bộ TN&MT.
Pháp luật về quan trắc môi trường của Việt Nam
Luật BVMT năm 2020 được Quốc hội Khóa XIV thông qua tháng 11 năm 2020 quy định: QTMT là việc theo dõi liên tục, định kỳ, đột xuất, có hệ thống về thành phần môi trường, các nhân tố tác động đến môi trường, chất thải nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện trạng môi trường, diễn biến chất lượng môi trường và tác động xấu đến môi trường.
Luật BVMT năm 2020 dành hẳn Chương IX quy định về QTMT, thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường và báo cáo môi trường. Trong đó, Điều 106 quy định chung về QTMT; Điều 107 quy định hệ thống QTMT; Điều 108 về đối tượng QTMT; Điều 109 về trách nhiệm QTMT; Điều 110 về điều kiện hoạt động QTMT; Điều 111 về quan trắc nước thải; Điều 112 về quan trắc bụi, khí thải công nghiệp; Điều 113 về quản lý số liệu QTMT.
Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật được phép tham gia hoạt động QTMT. Khoản 2 Điều 110 nêu rõ: Tổ chức đáp ứng yêu cầu về nhân lực QTMT, trang thiết bị QTMT, điều kiện kỹ thuật của phòng thí nghiệm và có quy trình phương pháp về QTMT được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động dịch vụ QTMT. Tổ chức được cấp giấy chứng nhận phải bảo đảm hoạt động phù hợp với năng lực vi phạm vi đã được chứng nhận. Đồng thời, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện QTMT định kỳ, thường xuyên, liên tục nhằm cung cấp, công bố thông tin về chất lượng môi trường cho cộng đồng phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật về QTMT theo quy định của pháp luật.
Tại điểm a, khoản 5 Điều 11 Luật BVMT năm 2020 quy định cơ quan chuyên môn về BVMT cấp tỉnh có trách nhiệm: Giám sát dữ liệu quan trắc nước thải tự động, liên tục; đánh giá kết quả quan trắc nước thải tự động, liên tục và so sánh với giá trị tối đa cho phép các thông số ô nhiễm theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nước thải; theo dõi, kiểm tra việc khắc phục trong trường hợp dữ liệu quan trắc bị gián đoạn; phát hiện thông số giám sát vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường và đề xuất biện pháp xử lý theo quy định.
Hiện nay, trong thời gian chờ Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thì hành (1/1/2022), các quy định về QTMT được thực hiện theo Luật BVMT năm 2014 và các văn bản hướng dẫn. Trong đó, Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật BVMT và quy định quản lý hoạt động dịch vụ QTMT: Tại khoản 2, Điều 5 Nghị định số 40/2019/NĐ-CP và khoản 4, khoản 5 Điều 40 Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT quy định các báo cáo định kỳ của dự dự án, cơ sở về: Quan trắc và giám sát môi trường định kỳ, quan trắc tự động liên tục, quản lý chất thải rắn sinh hoạt, quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường, quản lý chất thải nguy hại, quản lý phế liệu nhập khẩu, kết quả giám sát và phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản và các báo cáo môi trường khác được lồng ghép trong cùng một báo cáo công tác BVMT. Chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ lập báo cáo công tác BVMT định kỳ hàng năm (kỳ báo cáo tính từ ngày 1/1 đến hết ngày 31/12), gửi tới các cơ quan quản lý trước ngày 31/1 của năm tiếp theo. Báo cáo lần đầu được gửi trước ngày 31/1/2021. Mẫu báo cáo quy định tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT. Như vậy, tần suất lập Báo cáo công tác BVMT là 1 năm/lần.
Theo điểm d, khoản 1, Điều 37 Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT, báo cáo công tác BVMT trường được gửi tới các cơ quan: Cơ quan đã phê duyệt, xác nhận báo cáo đánh giá ĐTM, đề án BVMT, kế hoạch BVMT hoặc hồ sơ về môi trường tương đương của dự án, cơ sở; Sở TN&MT (nơi dự án, cơ sở có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ). Như vậy, chủ dự án cần gửi 2 bản báo cáo đến Sở TN&MT (Phòng Quản lý chất thải rắn và Chi cục BVMT); 1 bản về Phòng TN&MT quận/huyện hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác.
Theo khoản 27, Điều 3, các đối tượng phải thực hiện quan trắc nước thải, khí thải định kỳ và tần suất quan trắc được quy định: Quan trắc nước thải các cơ sở, khu công nghiệp và dự án đã đi vào vận hành có quy mô, công suất tương đương với đối tượng phải lập báo cáo ĐTM và có tổng khối lượng nước thải ra môi trường (theo tổng công suất thiết kế của các hệ thống xử lý nước thải hoặc theo khối lượng nước thải đã được phê duyệt trong ĐTM hoặc các hồ sơ tương đương) từ 20 m3/ngày (24 giờ) trở lên 3 tháng/lần. Các cơ sở, dự án đã đi vào hoạt động có quy mô công suất tương đương với đối tượng phải đăng ký kế hoạch BVMT và có tổng khối lượng nước thải ra môi trường (theo tổng công suất thiết kế hoặc theo khối lượng nước thải đã đăng ký trong kế hoạch BVMT từ 20 m3/ngày (24 giờ) trở lên 6 tháng/lần. Các cơ sở, dự án đã đi vào hoạt động có tổng khối lượng nước thải ra môi trường (theo tổng công suất thiết kế hoặc theo khối lượng nước thải đã phê duyệt trong ĐTM/kế hoạch BVMT/đề án BVMT/phiếu đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc các hồ sơ tương đương) dưới 20 m3/ngày (24 giờ). Miễn quan trắc quan trắc khí thải các cơ sở, dự án đã đi vào vận hành có quy mô, công suất tương đương với đối tượng phải lập ĐTM và có tổng lưu lượng khí thải thải ra môi trường từ 5.000 m3 khí thải/giờ trở lên (theo tổng công suất thiết kế của các hệ thống, thiết bị xử lý khí thải hoặc theo lưu lượng khí thải đã phê duyệt trong ĐTM và các hồ sơ tương đương) 3 tháng/lần.
Các cơ sở, dự án đã đi vào hoạt động có quy mô công suất tương đương với đối tượng phải đăng ký kế hoạch BVMT và có tổng lưu lượng khí thải thải ra môi trường từ 5.000 m3 khí thải/giờ trở lên (theo tổng công suất thiết kế của các hệ thống, thiết bị xử lý khí thải hoặc theo lưu lượng khí thải đã đăng ký trong kế hoạch bảo vệ môi trường) 6 tháng/lần các cơ sở, dự án đã đi vào hoạt động có tổng lưu lượng khí thải thải ra môi trường dưới 5.000 m3 khí thải/giờ (theo tổng công suất thiết kế của các hệ thống, thiết bị xử lý khí thải hoặc theo lưu lượng khí thải đã đăng ký trong ĐTM/kế hoạch BVMT/đề án BVMT/phiếu đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc các hồ sơ tương đương) miễn quan trắc. Như vậy, chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ thực hiện quan trắc nước thải, khí thải định kỳ theo tần suất như trên và tổng hợp vào một báo cáo công tác BVMT hàng năm. Quy định về thực hiện báo cáo công tác BVMT theo Thông tư số 25/2019/TT-BTNMT được áp dụng cho tất cả các chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ.
TS. NGUYỄN HẢI BÌNH
Đại học Thăng Long