Khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững
12/08/2024TN&MTHiện nay, phát triển ngành công nghiệp khoáng sản là yêu cầu tất yếu của các nước đang phát triển như Việt Nam. Nếu phát triển hợp lý, ngành công nghiệp khoáng sản sẽ phát huy được nội lực, góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Vì vậy, công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản, hướng đến phát triển kinh tế xanh và bền vững luôn được các cấp chính quyền đặc biệt coi trọng.
Phát triển ngành công nghiệp khoáng sản là yêu cầu tất yếu
Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, là tài sản quan trọng phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác, hoạt động này gây ra nhiều tác động đến môi trường và xã hội như: làm mất đi thảm thực vật; thay đổi cảnh quan sinh thái; xói mòn đất canh tác, phát thải làm ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm, ảnh hưởng đến chất lượng không khí; bên cạnh đó, còn có nguy cơ gây ra các sự cố ảnh hưởng nghiêm trọng đến con người. Do đó, việc khai thác khoáng sản một cách hợp lý và bền vững đang là thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý của các ngành và địa phương. Trước tính cấp thiết của vấn đề này, Đảng và Chính phủ đã đề ra những chủ trương, chính sách về BVMT nhằm định hướng hoạt động khai thác khoáng sản một cách phù hợp, hiệu quả và bền vững.
Theo Điều 67, Luật BVMT, tổ chức, cá nhân tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phải có phương án phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ, cải tạo và phục hồi môi trường: Thu gom, xử lý nước thải theo quy định; Thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn; có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, xả khí thải và tác động xấu khác đến môi trường xung quanh; có phương án cải tạo, phục hồi môi trường và tiến hành cải tạo, phục hồi môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật về khoáng sản; Ký quỹ BVMT theo quy định tại Điều 137 của Luật BVMT.
Đối tượng khai thác khoáng sản phải lập phương án cải tạo, phục hồi môi trường, bao gồm: Dự án đầu tư khai thác khoáng sản; Cơ sở khai thác khoáng sản hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành nhưng chưa có phương án cải tạo, phục hồi môi trường hoặc có thay đổi nội dung cải tạo, phục hồi môi trường so với phương án đã được phê duyệt; Cơ sở khai thác khoáng sản hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành đã được phê duyệt phương án cải tạo, phục hồi môi trường nhưng kinh phí không đủ để thực hiện theo quy định của pháp luật.
Khoáng sản có tính chất độc hại phải được lưu giữ, vận chuyển bằng phương tiện, thiết bị chuyên dụng, được che chắn bảo đảm không rò rỉ, phát tán ra môi trường.
Việc sử dụng máy móc, thiết bị có tác động xấu đến môi trường, hóa chất độc hại trong thăm dò, khai thác, đóng cửa mỏ, chế biến khoáng sản phải được đánh giá tác động môi trường, khai báo trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép môi trường.
Việc thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản khác có chất phóng xạ, chất độc hại, chất nổ phải thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật về an toàn hóa chất, năng lượng nguyên tử và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 30 Luật Khoáng sản quy định rõ việc BVMT trong khai thác khoáng sản là phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực hiện các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của pháp luật; phải thực hiện các giải pháp và chịu mọi chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường.
Giải pháp, chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường phải được xác định trong dự án đầu tư, báo cáo đánh giá tác động môi trường được cơ quan QLNN có thẩm quyền phê duyệt; phải ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Chính phủ.
Các địa phương chú trọng công tác BVMT trong khai thác khoáng sản
Hướng tới phát triển bền vững, trong những năm qua, các địa phương đã thực hiện nhiều biện pháp BVMT trong khai thác khai thác khoáng sản. Các bộ, ngành, địa phương đã chú trọng ngay từ khâu chấp thuận chủ trương đầu tư, đánh giá tác động môi trường của các dự án khai thác, chế biến khoáng sản, trong đó ưu tiên sàng lọc, loại trừ các dự án có công nghệ lạc hậu, có nguy cơ ô nhiễm môi trường. Trong quá trình quản lý hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản, công tác thanh tra, kiểm tra luôn được quan tâm thực hiện, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về môi trường, kịp thời kiến nghị giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường; Chủ động triển khai có hiệu quả công tác thu phí BVMT đối với nước thải, ký quỹ BVMT trong khai thác khoáng sản, bởi đây là một công cụ kinh tế hữu hiệu, gắn trách nhiệm kinh tế với trách nhiệm BVMT.
Tại tỉnh Hà Tĩnh, ngoài việc tăng cường phối hợp chặt chẽ, nghiêm túc giữa các sở, ngành, UBND các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ, thời gian qua, Sở Tài nguyên và Môi trường đã triển khai nhiều biện pháp để kiểm soát hoạt động tại các điểm mỏ, đặc biệt là việc chấp hành BVMT.
Còn tại tỉnh Quảng Ninh, các doanh nghiệp quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị trong khai thác, sản xuất, chế biến than nhằm tăng năng suất, đảm bảo an toàn, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu tác động môi trường.
Tỉnh Phú Thọ là địa phương có trữ lượng khoáng sản thấp và giá trị kinh tế theo từng loại không cao, chủ yếu là vật liệu xây dựng và một số loại khoáng sản khác như sắt, cao lanh, mica với quy mô phân tán nhỏ lẻ. Toàn tỉnh hiện có 102 mỏ khoáng sản được cấp phép khai thác, trong số đó có 13 mỏ đá làm vật liệu xây dựng thông thường, 15 mỏ sét, 13 mỏ cao lanh, 41 mỏ cát làm vật liệu xây dựng thông thường, 4 mỏ sắt, 2 mỏ dolomit - talc,… Ngoài ra, còn có 14 mỏ thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TN&MT. Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, công tác QLNN về môi trường nói chung và BVMT trong hoạt động khai thác khoáng sản nói riêng trên địa bàn tỉnh được tăng cường về nhiều mặt. Công tác cấp phép khai thác khoáng sản và tổ chức khai thác khoáng sản được thực hiện đảm bảo theo quy định, không để xảy ra những điểm nóng về môi trường,...
Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La luôn được các cấp các ngành quan tâm thực hiện nghiêm, tuân thủ nguyên tắc: Hoạt động khoáng sản phải lấy hiệu quả KT-XH và BVMT làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư. Sơn La kiên quyết không quy hoạch, cấp phép thăm dò, khai thác với các mỏ trong khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực định hướng phát triển du lịch; mỏ có trữ lượng nhỏ, khai thác khó khăn, sản xuất không hiệu quả, ảnh hưởng đến người dân, môi trường.
Còn tại Tây Ninh, với sự vào cuộc tích cực của các Sở, ngành và địa phương có liên quan, đặc biệt được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh, công tác cải tạo phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản được quan tâm thường xuyên và từng bước đi vào nề nếp, các hồ sơ đề nghị cấp giấy phép mới và gia hạn đã thực hiện ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường là 100%.
Như vậy, có thể thấy, các địa phương có tiềm năng khai thác khoáng sản đã quan tâm để công tác BVMT theo đúng chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước.
THANH TÚ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2024