Hướng tới nền hành chính điện tử ngành Tài nguyên và Môi trường
05/02/2022TN&MTBắt nhịp xu hướng số, hướng tới xây dựng nền hành chính điện tử, ngành Tài nguyên và Môi trường đang tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả trong quản lý, khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
Ảnh minh họa.
Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu số
Ngày 10/3/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành TN&MT đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu đến năm 2025, 80% cơ sở dữ liệu (CSDL) về TN&MT được xây dựng, cập nhật trên nền tảng dữ liệu lớn (Big data); trong đó, cơ bản hoàn thành CSDL đất đai quốc gia, CSDL nền địa lý quốc gia; CSDL môi trường quốc gia; sẵn sàng kết nối, chia sẻ và cung cấp dữ liệu mở để thực hiện dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. 100% dịch vụ công trực tuyến cung cấp ở mức độ 4, được xác thực một lần, cung cấp trên nhiều nền tảng thiết bị, tối ưu hoá, mang lại sự thuận tiện cho người dùng; 70% dịch vụ hành chính công phát sinh hồ sơ trực tuyến; tích hợp các dịch vụ công trực tuyến với Cổng Dịch vụ công quốc gia. Duy trì 100% hồ sơ công việc được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước),...
Theo Kế hoạch cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trong năm 2021, Bộ TN&MT đã hoàn thành triển khai 54 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 theo kế hoạch Chính phủ giao. Cụ thể, lĩnh vực BVMT gồm 22 dịch vụ công; lĩnh vực địa chất và khoáng sản gồm 4 dịch vụ công; lĩnh vực đất đai có 2 dịch vụ công. Bên cạnh đó, 13 dịch vụ công lĩnh vực tài nguyên nước; 6 dịch vụ công lĩnh vực biển và hải đảo; 5 dịch vụ công thuộc lĩnh vực ĐĐ&BĐ; 1 dịch vụ công lĩnh vực KTTV; 1 dịch vụ công lĩnh vực viễn thám.
Năm 2021, Bộ TN&MT triển khai cung cấp 100% dịch vụ công đủ điều kiện lên trực tuyến mức độ 4 đối với 2 nhóm gồm nhóm các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ TN&MT và nhóm các dịch vụ công thiết yếu theo đánh giá của Liên hợp quốc.
Thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ gồm 13 thủ tục thuộc lĩnh vực BVMT với 3 dịch vụ công; lĩnh vực địa chất và khoáng sản với 4 dịch vụ công; lĩnh vực ĐĐ&BĐ 1 dịch vụ công; lĩnh vực KTTV 1 dịch vụ công; lĩnh vực tài nguyên nước 3 dịch vụ công và 1 dịch vụ công thuộc lĩnh vực khác,... Bên cạnh đó, Cục CNTT&DL TNMT đã xây dựng dự thảo Chương trình Chuyển đổi số ngành TN&MT theo Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 áp dụng phần mềm erp, phần mềm doanh nghiệp, định hướng đến năm 2030” và theo hướng dẫn của Bộ TT&TT về Khung Chương trình Chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Cục đã hoàn thành và đưa vào triển khai 107 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công trực tuyến của Bộ TN&MT, trong đó, có 53 dịch vụ công mức độ 3, 54 dịch vụ công mức độ 4, đạt 50,5%; hoàn thành tích hợp hệ thống Một cửa điện tử, dịch vụ công trực tuyến của Bộ TN&MT với Cổng Dịch vụ công Quốc gia theo lộ trình của Văn phòng Chính phủ; tích hợp, cung cấp 38 TTHC (trong đó có 18 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4) lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia, đạt 40,9%, vượt mức chỉ tiêu được Chính phủ giao.
Cục phối hợp với các đơn vị có liên quan thuộc Bộ, rà soát, tái cấu trúc quy trình, xây dựng giải pháp kỹ thuật triển khai các dịch vụ công thiết yếu; phối hợp với Cục Kiểm soát TTHC (Văn phòng Chính phủ), Tổng cục thuế (Bộ Tài chính) thống nhất giải pháp kết nối, tích hợp thực hiện nghĩa vụ tài chính trong quá trình thực hiện TTHC nói trên.
Các giải pháp kỹ thuật sẵn sàng cho các mục tiêu
Cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuận lợi, làm thước đo hài lòng người dân và doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu để phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến 2030. Đối với các giải pháp kỹ thuật, 100% dịch vụ công trực tuyến cung cấp ở mức độ 4 đã thực hiện ngay trong năm 2021. Tuy nhiên, giải quyết TTHC không chỉ đơn thuần là kỹ thuật, cần thiết triển khai đồng bộ về chính sách, hành lang pháp lý để cuốn hút người dân, doanh nghiệp tham gia.
Cục đưa nội dung chuyển đổi số vào các văn bản QPPL đang triển khai xây dựng, như các quy định về giấy phép, chứng chỉ điện tử, cấp phép hoàn toàn trên môi trường số. Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế, chính sách về thu thập, tạo lập, quản lý, cung cấp toàn diện nguồn tài nguyên số về TN&MT, phát triển dịch vụ nội dung số về TN&MT góp phần phát triển kinh tế số, xã hội số.
Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc triển khai các mô hình mới về kiểm soát ô nhiễm môi trường, ứng phó với BĐKH và nước biển dâng; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường, các chỉ tiêu cụ thể cho đánh giá công nghệ xử lý chất thải trên môi trường, công nghệ số. Ngoài ra, nhận thức của người dân đóng vai trò quyết định trong việc chuyển đổi số thành công. Do đó, cần thường xuyên, đổi mới sáng tạo, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về Chính phủ điện tử, Chính phủ số, xã hội số. Đổi mới lề lối, phương thức làm việc, xây dựng văn hóa công sở mới phù hợp với môi trường số, với quá trình phát triển Chính phủ số. Bên cạnh đó, cần nâng cấp Cổng dịch vụ công của Bộ, kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia; Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN kết nối với Cổng thông tin một cửa quốc gia; kết nối với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu địa phương, bộ ngành; sử dụng các nền tảng dịch vụ như xác thực, định danh, thanh toán điện tử,… dùng chung; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp thông qua hiệu năng phục vụ, nâng cao trải nghiệm người sử dụng.
Bên cạnh đó, dữ liệu là hạ tầng quan trọng, cốt yếu, cần hoàn thiện cho chuyển đổi số ngành TN&MT. Do đó, các nhiệm vụ được đặt ra trong Chương trình chuyển đổi số gồm: Xây dựng, hoàn thiện các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành về TN&MT trên cơ sở kiến trúc, quy chuẩn đồng bộ thống nhất, tạo lập dữ liệu mở với sự tham gia của cộng đồng và được cung cấp, chia sẻ sử dụng rộng rãi, thuận lợi. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn của ngành hoàn toàn dựa trên phân tích, xử lý dữ liệu sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), theo thời gian thực, hỗ trợ ra quyết định chính xác, kịp thời, đúng quy định.
Chuẩn hóa CSDL văn bản hành chính, CSDL nội bộ dùng chung cho mọi cán bộ trong cơ quan nhà nước, ứng dụng triển khai công nghệ khai phá, xử lý trên các nền tảng số đáp ứng nhu cầu chỉ đạo, điều hành, thực hiện công tác hành chính và qua đó dữ liệu được cập nhật tự động, hoàn thiện hơn. Cung cấp, chia sẻ sử dụng dữ liệu TN&MT phục vụ phát triển KT-XH bền vững, phát triển kinh tế nội dung số, thúc đẩy xã hội số góp phần phát triển quốc gia công nghệ.
Đối với ngành TN&MT, trung tâm là dữ liệu về “không gian phát triển” của đất nước, nên nhiệm vụ bảo đảm an toàn, an ninh thông tin có vai trò then chốt, xuyên suốt¸ không thể tách rời để chuyển đổi số thành công và bền vững. Chương trình xác định mục tiêu đến năm 2025 “Bảo đảm an toàn thông tin mạng theo mô hình 4 lớp, 100% máy chủ, máy trạm của Bộ được triển khai giải pháp phòng chống mã độc; hoàn thành xác định cấp độ an toàn hệ thống thông tin; 100% hệ thống thông tin cấp độ 3, 4 và hệ thống thông tin quan trọng quốc gia được giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin”; đến năm 2030 “Bảo đảm an toàn thông tin cho triển khai vận hành Chính phủ số”, các nhiệm vụ cụ thể đặt ra bao gồm:
Hoàn thành xác định cấp độ và triển khai phương án bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ, bảo đảm an toàn thông tin mạng cho các hệ thống thông tin quan trọng quốc gia. Đồng thời, thu hút, trọng dụng nhân lực chất lượng cao về an toàn, bảo mật thông tin và tổ chức, bảo đảm hoạt động của mạng lưới lực lượng ứng cứu sự cố an toàn, an ninh mạng.
Xây dựng, vận hành trung tâm giám sát an toàn thông tin ngành TN&MT, kết nối, chia sẻ với Trung tâm An toàn không gian mạng quốc gia; triển khai các hệ thống: Hệ thống hỗ trợ giám sát, điều hành an toàn, an ninh mạng; hệ thống hỗ trợ điều phối, ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng; hệ thống phòng chống mã độc. Thực hiện kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin định kỳ cho các hệ thống thông tin, CSDL. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, diễn tập bảo đảm an toàn thông tin mạng.
TS. LÊ PHÚ HÀ
Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin và Dữ liệu Tài nguyên Môi trường