Hội thảo Phát triển ngành vật liệu xây dựng Việt Nam hiện đại và bền vững
09/11/2024TN&MTNgày 9/11, tại Hà Nội, Hội vật liệu xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Khoa học với chủ đề “Phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam hiện đại và bền vững”. Đây là một trong những ngành công nghiệp quan trọng, góp phần tạo nên kết cấu hạ tầng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu về các loại VLXD cũng ngày càng tăng cao, đòi hỏi ngành này phải không ngừng cải tiến và phát triển để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường.
Ông Tống Văn Nga, Chủ tịch Hội VLXDVN, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng phát biểu tại Hội thảo
Chia sẻ của PGS.TS Lê Trung Thành, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) trong hội thảo phát triển ngành vật liệu xây dựng Việt Nam hiện đại và bền vững do Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam tổ chức ngày 9/11 tại Hà Nội.
PGS.TS Lê Trung Thành - Vụ trưởng Vụ VLXD (Bộ Xây dựng) tại buổi hội thảo
Ông Thành nhận định, hiện nhu cầu sử dụng vật liệu xây dựng trong nước vẫn còn rất lớn vì diện tích nhà ở toàn quốc vẫn thấp, tỷ lệ đô thị hóa mới đạt khoảng 43%, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng chưa hoàn thiện. Những đặc điểm này tạo ra cho ngành vật liệu xây dựng một dư địa phát triển khá lớn. Trong 10 năm vừa qua, tổng năng lực sản xuất các loại VLXD chủ lực của Việt Nam đã tăng trưởng đạt khoảng 120 triệu tấn xi măng, 830 triệu m2 gạch ốp lát, 26 triệu sản phẩm sứ vệ sinh, 330 triệu m2 kính xây dựng, 20 tỷ viên gạch đất sét nung, 12 tỷ viên gạch không nung (quy tiêu chuẩn), trong đó sản lượng xi măng, gạch ốp lát thuộc nhóm tốp đầu trên thế giới, chất lượng đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngành vật liệu xây dựng Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Sản lượng tiêu thụ và doanh thu đều giảm sút dẫn đến nguy cơ đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, người lao động đối diện nguy cơ mất việc làm, tác động đến phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là trăn trở của Chính phủ và các bộ ngành trong điều hành để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nhóm ngành này.
Tại hội thảo, ông Nguyễn Quang Hiệp, Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại hạn chế. Đó là nhiều lĩnh vực sản xuất chủ yếu được đầu tư với quy mô nhỏ, trung bình, đặc biệt là các cơ sở sản xuất gạch, ngói, đất sét nung, gạch không nung, khai thác đá, cát xây dựng… Do đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất gặp nhiều khó khăn.
TS Nguyễn Quang Hiệp,Viện trưởng Viện VLXD (Bộ Xây dựng) tại buổi hội thảo
Cũng tại Hội thảo, TS. Nguyễn Quang Hiệp, Viện trưởng Viện VLXD (Bộ Xây dựng) cho biết, ngành công nghiệp VLXD đã đạt được những bước tiến đáng kể về năng lực sản xuất trong những năm gần đây, giai đoạn trước năm 2010 nhiều sản phẩm chủ yếu của nước ta như clanhke, gạch ốp lát các loại, sứ vệ sinh, kính xây dựng vẫn phải nhập khẩu để phục vụ nhu cầu xây dựng trong nước.
Tuy nhiên, đến nay, các DN sản xuất VLXD về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng trên phạm vi toàn quốc, nhiều sản phẩm đã tham gia vào thị trường xuất khẩu như clanhke, kính tiết kiệm năng lượng, gạch gốm ốp lát, đá ốp lát, sứ vệ sinh, vôi công nghiệp,...
"Những thành tựu này không chỉ giúp tăng cường sản lượng và hiệu quả sản xuất mà còn góp phần nâng cao vị thế của ngành trên thị trường quốc tế.
Theo ông Hiệp, để giải quyết những tồn tại, hạn chế, trong giai đoạn tiếp theo, Nhà nước và doanh nghiệp cần tiếp tục triển khai một số nhiệm vụ nhằm nâng cao quản lý, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất vật liệu xây dựng. Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu phát triển các loại vật liệu xây dựng mới, tính năng cao, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường.
Về tình hình tiêu thụ sản phẩm VLXD, thạc sĩ Lê Văn Tới, Phó Chủ tịch Hội VLXD Việt Nam cho biết, ngành công nghiệp sản xuất VLXD để khai thác hết công suất các dây chuyền là một vấn đề nan giải, đặc biệt là VLXD thân thiện.
Từ năm 2023 đến nay, trước tình hình thế giới có nhiều "rủi ro và bất ổn kéo dài"; thị trường bất động sản trầm lắng; giá nguyên liệu tăng cao; tình hình sản xuất và tiêu thụ VLXD lại đang khó khăn. Nhiều DN đã phải dừng toàn bộ hoặc một phần cơ sở sản xuất, thua lỗ kéo dài, tình trạng nợ xấu tăng cao. Niềm tin vào kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành đang xuống mức thấp đáng báo động, các DN phải gồng mình để vượt qua thời điểm khó khăn này.
Hội thảo Phát triển ngành vật liệu xây dựng Việt Nam hiện đại và bền vững
Cũng theo đó, lãnh đạo Hội VLXD Việt Nam kiến nghị, về tháo gỡ trước mắt cần có chính sách để tiếp tục giảm lãi suất vốn vay. Trong thời gian qua lãi suất vốn vay cũng đã có giảm, nhưng vẫn còn quá cao khiến cho việc giảm chi phí tài chính của DN rất khó khả thi.
Giảm thuế suất, thuế xuất khẩu cho các mặt hàng VLXD về đúng tinh thần quy định trong Luật Thuế, cụ thể là clinke xi măng, đá ốp lát tự nhiên. Hiện nay, các mặt hàng này chịu thuế ở mức cao như xuất khẩu khoáng sản thô.
Có chính sách để tăng giải ngân vốn đầu tư công. Áp dụng tối đa phương pháp thi công cầu cạn bê tông cốt thép thay cho phương pháp đắp nền để làm đường cao tốc cùng với chính sách quản lý chặt chẽ nhưng phải có sự hỗ trợ để bất động sản phát triển.
Quang cảnh hội thảo
Về lâu dài, theo ThS. Lê Văn Tới, Nhà nước cần duy trì và tăng cường chính sách khuyến khích, hỗ trợ DN trong việc chuyển giao công nghệ mới, đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại cũng như cải tiến công nghệ.
Duy trì và thúc đẩy việc thực hiện chính sách tăng cường sản xuất và ứng dụng VLXD thân thiện, đặc biệt là việc sử dụng; có chính sách thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng rác thải, đặc biệt là rác thải sinh hoạt làm nhiên liệu thay thế sản xuất VLXD.
"Bộ Xây dựng nghiên cứu và đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cơ chế ưu tiên sử dụng cát nhân tạo trong công trình xây dựng; đồng thời có quy hoạch vùng khoáng sản để làm cát nhân tạo" - ThS. Lê Văn Tới kiến nghị!.
Phó Tổng Giám đốc Viglacera Quách Hữu Thuận chia sẻ, thành tựu mới nhất của Viglacera tập trung vào 5 lĩnh vực sản phẩm: bê tông khí chưng áp, đá nung kết , kính tiết kiệm năng lượng và kính siêu trắng, sứ vệ sinh thông minh và sen vòi phủ PVD. Trong đó, yếu tố công nghệ - đổi mới - sáng tạo luôn là định hướng xuyên suốt. Điều này cũng chính là bí quyết tạo nên thành công cho thương hiệu mạnh Viglacera.
Phó Tổng Giám đốc Viglacera Quách Hữu Thuận chia sẻ
Tuy nhiên, ông Thuận cho rằng, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt hiện nay, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần tạo lập những chính sách mạnh mẽ để hỗ trợ tiêu thụ, khuyến khích sử dụng các sản phẩm mới công nghệ cao.
Cụ thể như việc thiết lập hàng rào kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu, đối xử công bằng như các nước đang áp dụng với Việt Nam. Đồng thời, cập nhật các quy phạm kỹ thuật, quy chuẩn,… cho những dòng sản phẩm mới, hoặc đưa vào thông báo giá kịp thời để tạo điều kiện sử dụng cho các công trình quốc gia.
Sỹ Tùng