Hệ thống khu bảo tồn biển: Cơ sở hạ tầng tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu
20/04/2023TN&MTTheo Dự thảo Đề án mở rộng, thành lập mới các khu bảo tồn biển (KBTB) đưa ra mục tiêu từ nay đến năm 2030 Việt Nam sẽ có thêm 14 khu bảo tồn biển. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 27 KBTB với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 442.235 ha, chiếm khoảng 0,44% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.
Cần thiết mở rộng diện tích các khu bảo tồn biển
Ông Lê Trần Nguyên Hùng, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Bảo tồn và Phát triển nguồn lợi thủy sản Việt Nam, cho rằng các KBTB đang đối diện với tình hình biến đổi khí hậu, nhiệt độ nước biển tăng, axít hóa đại dương, lũ lụt, bão tố, gia tăng các loài địch hại,... làm suy giảm hệ sinh thái, môi trường vùng biển. Bên cạnh đó, việc ô nhiễm môi trường từ khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp,… gây áp lực lớn đối với các KBTB. Ngoài ra, các hoạt động phát triển KT-XH, nhất là hoạt động cảng biển, rác thải nhựa, phát triển du lịch nếu không được kiểm soát tốt sẽ tác động, ảnh hưởng đến môi trường, hệ sinh thái và nguồn lợi thủy sản.
Khu bảo tồn Hòn Cau nhìn tư trên cao xuống
PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Uỷ viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, việc mở rộng diện tích các KBTB trở thành nội dung quan trọng của kinh tế biển xanh, được xem là một trong những phương thức hữu hiệu, ít tốn kém để duy trì, quản lý nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học biển, bảo đảm nhu cầu sinh kế của ngư dân. Quản lý hiệu quả mạng lưới các KBTB là một phần không thể tách rời khi đầu tư vào kinh tế biển xanh. Thời gian tới, Việt Nam cần tiến hành các hoạt động kiểm kê, đánh giá các nguồn vốn tự nhiên biển, đảo và các hoạt động quy hoạch không gian biển dựa vào hệ sinh thái để tối ưu hóa lợi ích, giảm thiểu xung đột trong khai thác, sử dụng biển.
Kinh tế biển xanh hiện đã được hầu hết các quốc gia công nhận là giải pháp phát triển bền vững biển và dần đưa thành yêu cầu bắt buộc trong chiến lược, chính sách phát triển. Kinh tế biển xanh được hiểu là sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, đại dương nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cải thiện sinh kế, đồng thời bảo tồn sức khỏe của các hệ sinh thái biển, đại dương.
Nguồn lợi hải sản được tăng dày khi nảo tồn được quản lý tốt
Các hệ sinh thái biển, ven biển bao gồm hệ thống KBTB được thành lập đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, cung cấp nguồn lợi hải sản, điều hòa thời tiết khí hậu và là cơ sở hạ tầng tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, tiềm năng bảo tồn thiên nhiên biển rất to lớn và cung cấp các dịch vụ quan trọng để phát triển các ngành, nghề kinh tế biển theo hướng bền vững như nghề cá, nuôi trồng, du lịch biển.
Đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 27 khu bảo tồn biển
Theo Dự thảo Đề án mở rộng, thành lập mới các KBTB đưa ra mục tiêu từ nay đến năm 2030 Việt Nam sẽ có thêm 14 khu bảo tồn biển (KBTB).
Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 27 KBTB với tổng diện tích vùng biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 442.235 ha, chiếm khoảng 0,44% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia.
Biển, đảo - Cánh đồng hành tinh cuối cùng của loài người sẽ giầu tài nguyên khi có nhiều các KBTB
Trong đó có 11 KBTB cấp quốc gia, gồm: 05 KBTB đã thành lập là: Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Núi Chúa (Ninh Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Nam Yết và vịnh Nha Trang (Khánh Hòa); thành lập mới 06 KBTB là vịnh Hạ Long, Bái Tử Long (Quảng Ninh), Cát Bà - Long Châu (Hải Phòng), Gò Đồi Ngầm (Quảng Bình), Thuyền Chài, Song Tử (Khánh Hòa). KBTB cấp tỉnh có 16 khu, trong đó thành lập mới 08 KBTB là: Cà Mau, Hòn Ngư - Đảo Mắt (Nghệ An), Hải Vân - Sơn Chà (Thừa Thiên - Huế), Sơn Trà (Đà Nẵng), Quy Nhơn (Bình Định), Vũng Rô (Phú Yên), Hải Tặc, Nam Du - Hòn Sơn (Kiên Giang).
Đề án cũng đưa ra mục tiêu quản lý hiệu quả 59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và 63 khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn khoảng 2,5% diện tích; thành lập và đưa vào hoạt động các khu vực áp dụng biện pháp bảo tồn hiệu quả đạt khoảng 0,5% diện tích; quản lý hiệu quả các khu bảo tồn đất ngập nước ven biển để bảo đảm tổng diện tích các khu bảo tồn đất ngập nước ven biển đạt khoảng 1,5%; mở rộng diện tích vùng biển phục hồi các hệ sinh thái biển đạt khoảng 1% diện tích các vùng biển Việt Nam. Tổng diện tích chiếm 6% diện tích biển Việt Nam.
Các hệ sinh thái biển, ven biển bao gồm hệ thống KBTB được thành lập đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đa dạng sinh học, cung cấp nguồn lợi hải sản, điều hòa thời tiết khí hậu và là cơ sở hạ tầng tự nhiên chống đỡ thiên tai và biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, tiềm năng bảo tồn thiên nhiên biển rất to lớn và cung cấp các dịch vụ quan trọng để phát triển các ngành, nghề kinh tế biển theo hướng bền vững như nghề cá, nuôi trồng, du lịch biển,… Việc mở rộng diện tích các KBTB trở thành nội dung quan trọng của kinh tế biển xanh, được xem là một trong những phương thức hữu hiệu, ít tốn kém để duy trì, quản lý nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học biển.
Hiện nay, Trung ương đang triển khai 9 giải pháp đồng bộ nhằm quản lý hiệu quả các KBTB mà Đề án KBTB nói trên và "Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2012-2030, tầm nhìn đến năm 2050" là 2 giải pháp về cơ chế chính sách sẽ được trình bộ, ngành và Chính phủ trong năm 2023. Bên cạnh đó, ở cấp địa phương, hiện nay các tỉnh, thành có KBTB đa số đã xây dựng các quy chế quản lý, kế hoạch tổng thể và quy định của pháp luật có liên quan để bảo vệ KBTB, phát triển kinh tế biển theo hướng bền vững.
Bảo Trâm