Ghi nhận một số kết quả trong quản lý nhà nước về biển sau 5 năm triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW
03/06/2023TN&MTSau 5 năm năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, với những định hướng đúng đắn trong mục tiêu và khâu đột phá, sự quyết tâm chính trị, kinh tế biển Việt Nam đã có những bước chuyển mình nhất định, mở ra một thời kỳ mới cho phát triển bền vững kinh tế biển theo mô hình kinh tế biển xanh - Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Đức Toàn- Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam với Tạp chí TN&MT nhân dịp Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2023.
Phóng viên: Xin ông đánh giá khái quát công tác chỉ đạo và kết quả thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW?
Ông Nguyễn Đức Toàn: Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Trong Nghị quyết số 26/NQ-CP, Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện “Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045” được giao chỉ đạo toàn diện việc triển khai Nghị quyết số 26/NQ-CP. Bộ TN&MT với vai trò là cơ quan thường trực, chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan giúp Ủy ban Chỉ đạo Quốc gia theo dõi, đôn đốc, tổng hợp tình hình việc thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP.
Qua gần 5 năm theo dõi, đôn đốc thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP có thể thấy rằng, chúng ta triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW trong bối cảnh tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ, khó khăn hơn so với khi xây dựng các Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm để thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp; xung đột Nga - Ukraine kéo dài ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng; lạm phát thế giới tăng cao, xu hướng tăng lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khóa và đặc biệt hậu quả của đại dịch Covid -19 dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ở trong nước, áp lực lạm phát tăng cao; giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành, lĩnh vực kinh tế biển; cùng với đó dịch bệnh, thiên tai, bão lũ diễn biến phức tạp, gây nhiều thiệt hại cho sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân tại các địa phương có biển.
sự đổi thay ở vùng biển Hạ Long
Đứng trước các khó khăn trên, các bộ, ngành và địa phương đã bám sát các nghị quyết, kết luận của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, linh hoạt trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đề ra, nỗ lực giải quyết, ứng phó kịp thời với những vấn đề mới phát sinh để thực hiện có trọng tâm, trọng điểm các công việc đề ra trong Nghị quyết số 26/NQ-CP. Trước khi làm việc với các địa phương có biển, các đoàn công tác của Thủ tướng Chính phủ đều có những cuộc kiểm tra hiện trường, tiếp xúc trực tiếp với người dân để nắm bắt tình hình cụ thể để lắng nghe nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp và kịp thời chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế biển tại địa phương. Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 24/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ một số nhóm nhiệm vụ các bộ, ngành và địa phương cần tập trung thực hiện nhằm cụ thể hóa 03 khâu đột phá, đó là “thể chế”, “khoa học - công nghệ” và “kết cấu hạ tầng”. Nhờ vậy kinh tế biển đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Đến nay, tại Trung ương, đã có 11 cơ quan ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP. Có 27/28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển ban hành Chương trình/Kế hoạch hành động thực hiện, trong đó đều xác định kinh tế biển là lợi thế và trọng tâm để tạo động lực tăng trưởng tại địa phương. Công tác truyền thông đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, hải đảo, phát triển bền vững kinh tế biển được tiến hành thường xuyên đã tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế trong công cuộc bảo vệ biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển.
Các chủ trương lớn, khâu đột phá được tập trung triển khai và có những kết quả tích cực như:
Thứ nhất, về định hướng phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế biển, nhiều bộ, ngành đã tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chiến lược, quy hoạch, chương trình liên quan trực tiếp đến phát triển bền vững kinh tế biển, như:
Bộ TN&MT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Công tác xây dựng quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đã trình Hội đồng thẩm định quốc gia; quy hoạch không gian biển quốc gia cũng đang được gấp rút xây dựng, bảo đảm trình đúng thời hạn. Các đề án về hợp tác quốc tế, phát triển bền vững kinh tế biển, Chương trình truyền thông về biển và đại dương,… đã được ban hành. Bộ TN&MT cũng đang trao đổi với Bộ Kế hoạch và đầu tư về hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế biển.
Bộ NN&PTNT đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; xây dựng các quy hoạch ngành như: bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão…
Bộ Giao thông Vận tải đã triển khai xây dựng đồng bộ 05 quy hoạch ngành quốc gia, trong đó đã trình ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam, Quy hoạch mạng lưới đường bộ,…
Bộ Công thương đang xây dựng trình Quy hoạch tổng thể về năng lượng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có những yêu cầu khá cụ thể về quy mô phát triển điện gió ở biển và ven biển,… nhằm đáp ứng các cam kết của Việt Nam đối với quốc tế về phát thải khí nhà kính.
Bộ KH&CN đã phê duyệt và tổ chức thực hiện Chương trình trọng điểm cấp quốc gia “Nghiên cứu KH&CN phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển” (mã số KC.09/16-20).
Nuôi biển công nghiệp giảm ô nhiễm môi trường, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế biển
Thứ hai, một số ngành, lĩnh vực kinh tế biển truyền thống có sự phát triển ổn định sau đại dịch Covid-19. Ngành khai thác và nuôi trồng phát triển ổn định qua nhiều năm, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản. Năm 2022, sản lượng thủy sản khoảng 9.026,3 nghìn tấn, tăng 2,7% so với năm 2021, trong đó nuôi trồng thủy sản chiếm đến 5.163,7 nghìn tấn, tăng 6,3% so với năm 2021. Nuôi trồng thủy sản phát triển khá do nhu cầu và giá xuất khẩu tôm nuôi tăng.
Tính chung năm 2022, khách quốc tế đến nước ta đạt 3.661,2 nghìn lượt người, gấp 23,3 lần so với năm trước nhưng vẫn giảm 79,7% so với năm 2019, năm chưa xảy ra dịch Covid-19. Khu vực dịch vụ, đặc biệt dịch vụ ven biển và biển được khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng hơn 9%.
Vận tải đường biển năm 2022 là 108,9 triệu tấn, tăng 27,9% so với năm 2021 và 34,7% so với năm 2019. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa qua đường biển năm 2022 khoảng 732,5 tỷ đô la, tăng 9,5% so với năm 2021.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng kỹ thuật các vùng ven biển được cải thiện rõ rệt. Các tuyến đường ven biển ở miền Bắc và miền Trung giúp kết nối các khu du lịch dịch vụ hiện có dọc bờ biển; tạo điều kiện khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên biển và vùng ven biển, từng bước hình thành các khu đô thị, khu du lịch, dịch vụ ven biển, hình thành các nguồn lực mới để phát triển KT-XH phù hợp với chiến lược quốc gia về kinh tế biển Việt Nam; góp phần thu hút đầu tư về thương mại, dịch vụ, du lịch biển. Các công trình điện lưới quốc gia nối với các đảo lớn, các cảng biển, trung tâm nghề cá phục vụ đánh bắt xa bờ, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm xây dựng, tu bổ,…
Thứ tư, công tác BVMT, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển được tăng cường; hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được quan tâm sát sao. Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206 nghìn ha, trong đó có 185 nghìn ha biển. Việt Nam đã tích cực tham gia nhiều diễn đàn khu vực và thế giới về kinh tế biển xanh, chống rác thải nhựa biển, bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển.
Nhìn chung, kinh tế biển có những bước phát triển, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển chung của đất nước. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh chặt chẽ hơn ở tất cả các khâu từ quy hoạch đến đầu tư và các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Các lực lượng hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư được tăng cường về tiềm lực và sức mạnh sẵn sàng chiến đấu. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được giữ vững và ngày càng được củng cố vững chắc.
Phóng viên: Ông có thể cho biết những tồn tại, khó khăn trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP?
Ông Nguyễn Đức Toàn: Nhìn chung, phát triển kinh tế biển của nước ta còn chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế vốn có, chưa thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển. Chúng tôi nhận thấy có những tồn tại, khó khăn sau cần phải khắc phục sớm:
Thứ nhất, cơ chế, chính sách pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tế. Nghị quyết số 36-NQ/TW đã chỉ ra những hạn chế về hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật “Chính sách, pháp luật về biển chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, một số chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế hoá kịp thời”. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 26/NQ-CP đã đưa ra nhiệm vụ “Rà soát, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật để triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW”. Tuy nhiên, do đặc thù, phức tạp, đến nay, hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật để triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW đang trong quá trình xây dựng, đặc biệt là nhiệm vụ lập quy hoạch không gian biển quốc gia, hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo cũng như bộ tiêu chí đánh giá quốc gia biển mạnh.
Nghị định lấn biển và Nghị định thế chấp, cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng khu vực biển của tổ chức, cá nhân được giao để nuôi trồng thủy sản; hỗ trợ, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi khu vực biển vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau nên vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu tiếp thu, chỉnh sửa để trình Chính phủ ban hành.
Không gian biển mang tính liên thông, sử dụng đa mục đích, cùng một khu vực biển có rất nhiều hoạt động kinh tế đan xen. Hoạt động khai thác, sử dụng biển rất khó khăn, phức tạp liên quan tới các nhiệm vụ, quy định pháp luật và lợi ích của các bộ, ngành, địa phương, do đó, cần có sự phối hợp hết sức chặt chẽ của các Bộ, ngành và địa phương với mục tiêu chung là phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
Thứ hai, nguồn kinh phí để thực hiện các dự án, nhiệm vụ, chương trình cấp hàng năm chưa đáp ứng yêu cầu, dẫn đến chậm tiến độ. Để triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 36-NQ/TW Chính phủ đã Nghị quyết số 26/NQ-CP, trong đó đã đưa ra 37 đề án, dự án, nhiệm vụ (sau đây gọi tắt là dự án) thực hiện trong giai đoạn đến năm 2025. Tuy nhiên, theo số liệu báo cáo của các Bộ, ngành, đến nay có khoảng 11/37 dự án được phê duyệt. Mặc dù vậy, với tiến độ thực hiện và khả năng bố trí kinh phí như hiện nay, đến hết năm 2025 rất khó để hoàn thành các dự án được duyệt. 26 dự án còn lại đang trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và triển khai.
Các Dự án thuộc Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030 được phê duyệt tại Quyết định số 28/QĐ-TTg ngày 07/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ gặp nhiều khó khăn do nhiều dự án có nội dung chuyên môn phức tạp, chưa có quy định kỹ thuật, định mức, đơn giá, thiếu phương tiện, trang thiết bị,…đặc biệt là việc bố trí nguồn vốn ngân sách hằng năm chưa đáp ứng theo kề hoạch được phê duyệt.
Thứ ba, khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực biển chưa thực sự những nhân tố then chốt để phát triển bền vững kinh tế biển. Phát triển KH&CN biển của Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức, đầu tư chưa thích đáng nên năng lực nghiên cứu KHCN biển của nước ta chỉ thu được thành quả rất khiêm tốn, năng lực KH&CNbiển nhìn chung còn khá thấp so với các nước phát triển trên thế giới. Hệ thống cơ sở nghiên cứu và đội ngũ cán bộ KH&CN biển vừa thiếu vừa yếu. Chất lượng nghiên cứu chưa đồng đều và hiệu quả ứng dụng chưa cao. Trên thực tế các công trình nghiên cứu có chất lượng cao còn ít. Phương tiện và trang thiết bị khảo sát như tàu nghiên cứu biển còn thiếu thốn, lạc hậu; hệ thống chuỗi số liệu khảo sát thiếu đồng bộ và thiếu số lượng cần thiết do hạn chế về thời gian thực hiện và kinh phí đầu tư. Nguồn nhân lực phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn kinh tế biển chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng và chưa có cơ cấu hợp lý. Chưa dự báo được nhu cầu thị trường lao động các ngành kinh tế biển; chưa có chính sách hợp lý để thu hút và sử dụng nhân lực biển trong từng ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn.
Các tồn tại, khó khăn nêu trên, ngoài những nguyên nhân khách do tình hình thế giới biến động rất nhanh, phức tạp, chưa có tiền lệ, nước ta cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19 trong các năm 2020, 2021, nguồn lực xã hội tập trung vào phòng, chống, xử lý dịch bệnh, đầu tư công ích và khôi phục sản xuất,… thì nguyên nhân chủ quan là chúng ta chưa thực sự tập trung các nguồn lực vào các chủ trương, giải pháp và khâu đột phá đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW và chưa xác định được một số đề án, dự án, nhiệm vụ tại Nghị quyết số 26/NQ-CP để tạo sự biến chuyển lớn cho phát triển bền vững kinh tế biển. Chưa có quy định cụ thể để thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách để triển khai các đề án, nhiệm vụ của Nghị quyết 26/NQ-CP. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương ở mỗi khu vực biển chưa rõ ràng, chưa thể hiện được tính liên kết trong phát triển kinh tế biển.
Phóng viên: Trong bối cảnh mới và trước xu thế toàn cầu hóa, công tác quản lý nhà nước về biển đảo nói chung và phát triển kinh tế biển nói riêng, theo ông cần ưu tiên thực hiện những nhiệm vụ gì?
Ông Nguyễn Đức Toàn: Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững, tạo đồng thuận trong toàn xã hội. Tập trung triển khai thực hiện Quyết định số 729/QĐ-TTg ngày 16/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình truyền thông về biển và đại dương đến năm 2030 nhằm đạt được sự thay đổi quan trọng trong nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW đối với phát triển kinh tế biển xanh.
Hai là, rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Các bộ, ngành chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ TN&MT và các bộ, ngành, địa phương có liên quan rà soát, đánh giá, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật, tạo hành lang pháp lý về đổi mới, phát triển mô hình kinh tế biển xanh, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong phát triển kinh tế biển. Đẩy nhanh lập và trình duyệt các quy hoạch ngành và địa phương có biển.
Ba là, các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh thực hiện Chị thị số 31/CT-TTg ngày 24/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn tổ chức thực hiện các dự án, nhiệm vụ đã được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, Nghị quyết số 26/NQ-CP.
Bốn là, tăng cường nguồn lực thực hiện các dự án, đề án, chương trình đề ra trong Nghị quyết số 26/NQ-CP. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính ưu tiên tập trung nguồn vốn để triển khai các đề án, dự án, nhiệm vụ quan trọng xác định trong Nghị quyết số 26/NQ-CP và Quyết định số 28/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2020 và Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển đến năm 2030, đặc biệt ưu tiên các dự án phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; hạ tầng kỹ thuật kết nối ven biển; điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Bộ KH&ĐT khẩn trương xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh. UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân chủ động bố trí ngân sách địa phương để thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ được giao theo phân cấp ngân sách hiện hành; các quy hoạch, kế hoạch khai thác sử dụng TN,MT biển phải dựa trên các cơ sở khoa học, cơ sở dữ liệu điều tra TN,MT biển.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông.
Minh Anh (thực hiện)
Bài đã đăng trên Tạp chí TN&MT số 9-2023