Doanh nghiệp có nhiều lợi thế khi áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn
12/08/2022TN&MTKinh tế tuần hoàn (KTTH) chính là giải pháp để tiếp tục vững tin đi trên con đường đến phát triển bền vững cùng kinh tế xanh, kinh tế carbon thấp. KTTH góp phần giảm rủi ro cho doanh nghiệp về khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng... Xã hội sẽ được hưởng lợi nhờ giảm chi phí trong quản lý, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng cao sức khoẻ người dân...Vậy Việt Nam đang phát triển ra sao, trong quá quá trinh thực hiện đang gặp những vướng mắc gì?. Phóng viên Tạp chí TN&M lược ghi lại một số chia sẻ của các nhà quản lý, doanh nghiệp và chuyên gia quốc tế nói về vấn đề này như sau:
Tham gia chuỗi kinh tế tuần hoàn là thể hiện trách nhiệm với quốc giaTS. Mai Thế Toản - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT):
Ở nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định chủ trương phát triển KTTH là trọng tâm trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội tới năm 2030. Luật BVMT đã thể chế hóa chủ trương này, dành 1 điều riêng về KTTH. Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã quy định tiêu chí, lộ trình, trách nhiệm và cơ chế khuyến khích phát triển KTTH tại Việt Nam. Nghị định giao Bộ TN&MT xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH vào cuối năm 2023. Dưới tác động của đại dịch Covid-19, KTTH sẽ là một công cụ mạnh mẽ để có thể phục hồi nền kinh tế và xã hội theo hướng thân thiện với môi trường.
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, Viện trưởng Viện chính sách Kinh tế Môi trường:
Tôi khẳng định, doanh nghiệp sẽ có những thuận lợi nhất định khi áp dụng mô hình KTTH. Thứ nhất, đây là chủ trương lớn của Đảng thể hiện trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030. KTTH đã được cụ thể hóa trong luật BVMT tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện mô hình KTTH. Thứ hai, KTTH là xu hướng chung toàn cầu. Mô hình KTTH được nhiều quốc gia lựa chọn, như vậy doanh nghiệp có cơ hội trao đổi, học hỏi về kinh nghiệm, thiết kế, chuyển giao công nghệ,… trên cơ sở mô hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã và đang thực hiện. Thứ ba, áp dụng mô hình KTTH, doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi ích bao gồm: Cơ chế hỗ trợ, tránh được các điều chỉnh luật pháp khác về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường, lợi nhuận gia tăng, lao động việc làm,…Thứ tư, sự hỗ trợ của chuyển đổi số và công nghệ trong quá trình đổi mới chuyển đổi sang mô hình KTTH phù hợp với cách mạng 4.0, 5.0…
Tuy nhiên, về mặt nhận thức, hiện nay nhận thức về KTTH nói chung và mô hình KTTH vẫn là vấn đề mới của doanh nghiệp, nhất là áp dụng cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp thế nào được gọi là KTTH.
Về cơ chế chính sách, sự bất cập giữa các luật, nhất là giữa Luật BVMT, Luật Đất đai, Luật Xây dựng,… Lý do là nội dung KTTH mới đưa vào Luật BVMT trong khi các luật khác đã ban hành trước đây và nay đang quá trình bổ sung hoàn thiện.
Sau luật, nghị định và thông tư, đến nay một số cơ chế, chính sách khác đang quá trình hoàn thiện ở cấp trung ương và các địa phương, cụ thể là đưa nội dung KTTH vào quy hoạch, kế hoạch thực hiện; kế hoạch hành động, lộ trình thực hiện đều liên quan đến doanh nghiệp. Chưa có bộ tiêu chí để nhận dạng thế nào là mô hình KTTH.
Bên cạnh đó, những tồn tại cũ từ thiết kế mô hình KTTH. Việc chuyển đổi sang mô hình KTTH đòi hỏi các doanh nghiệp đã hoạt động trước đây phải thiết kế lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình từ khâu đầu vào nguyên liệu, thay vì thải ra môi trường như trước đây, chất thải được thu hồi tái sử dụng, tái chế hoặc đầu vào cho hoạt động sản xuất khác, liên quan đến mặt bằng, công nghệ, kết nối với các doanh nghiệp trong một chu trình khép kín.
Những doanh nghiệp đầu tư mới theo mô hình KTTH khâu thiết kế ban đầu cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, cần có những chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn và thiết kế giỏi. Hiện nay chưa có đào tạo lĩnh vực thiết kế mô hình KTTH, đòi hỏi sự nỗ lực của doanh nghiệp.
Ngoài ra, về nguồn vốn đầu tư, công nghệ, con người cũng là trở ngại lớn cho doanh nghiệp muốn chuyển đổi sang mô hình KTTH hiện nay. Bởi việc chuyển sang mô hình KTTH đòi hỏi phải thiết kế lại, đầu tư để đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất để nâng cao chất lượng kéo dài vòng đời sản phẩm, thu hồi chất thải,… Như vậy, doanh nghiệp sẽ có những sự thay đổi và tìm kiến công nghệ mới phù hợp, hiệu quả.
Ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Shinec: Với tư duy đổi mới về khái niệm tài nguyên, Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) đã xây dựng được mô hình liên kết cộng sinh mang đặc thù riêng của Việt Nam, hoàn toàn do người Việt Nam thực hiện, đáp ứng các tiêu chí cả về thực tiễn và quy định pháp lý nhằm kiến tạo thành khu công nghiệp sinh thái điển hình, kiểu mẫu mô hình KTTH.
Việc thu hút đầu tư của khu công nghiệp Nam Cầu Kiền luôn dựa trên các tiêu chí nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp nghiêm túc tuân thủ các quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường và lao động; khuyến khích nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp áp dụng hệ thống quản lý sản xuất và môi trường theo các tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) phù hợp.
Bên cạnh đó, tối thiểu 90% doanh nghiệp trong khu công nghiệp có nhận thức về sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn và tối thiểu 20% doanh nghiệp trong khu công nghiệp áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, đổi mới, cải tiến phương pháp quản lý và công nghệ sản xuất để giảm chất thải, chất gây ô nhiễm, tái sử dụng chất thải và phế liệu.
Với định hướng phát triển hình hành khu công nghiệp sinh thái, đến nay Nam Cầu Kiền đã thu hút hơn 70 nhà đầu tư trong và ngoài nước vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ cao, ít gây ô nhiễm môi trường như: Công nghệ phụ trợ, công nghệ cao; công nghiệp chế tạo; sản xuất máy móc thiết bị hỗ trợ cho công nghệ đầu tư; sản xuất các sản phẩm trang trí nội ngoại thất xuất khẩu; các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất trong Khu công nghiệp; năng lượng xanh; cùng các ngành sản xuất ít ô nhiễm khác;...
Theo tôi, muốn làm được KTTH việc trang bị kiến thức cho tất cả các cán bộ nhân viên, các chủ đầu tư, các chủ doanh nghiệp và trang bị kiến thức cho toàn xã hội về phát triển KTTH là rất quan trọng. Tiên quyết nhất vẫn là “tháo gỡ” khó khăn từ hành lang pháp lý cho doanh nghiệp. Hiện hành lang pháp lý của chúng ta chưa thích ứng được với sự phát triển. Theo đó, để điều tiết được KTTH cần có sự tích hợp giữa các luật như Luật Đất đai, Luật Môi trường, Luật Thuế... Điều này sẽ tạo thuận lợi cho các cấp chính quyền trong việc điều hành có hiệu quả và tạo ra các chính sách thông thoáng, cũng là điều kiện để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Quốc tế sẵn sàng chung tay và đưa ra khuyến nghị
Bà Caitlin Wiesen Antin, Trưởng Đại diện, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP): Mong muốn chung tay vào công cuộc chống khủng hoảng toàn cầu, Việt Nam vừa qua đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng kép rõ ràng là trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045 và đáp ứng trung tính cacbon vào năm 2050. Với cam kết này, Việt Nam chính thức trở thành một trong 70 quốc gia cam kết giải quyết vấn đề cấp bách nhất thời đại. Theo đó, 5 khuyến nghị có thể phù hợp với nền kinh tế Việt Nam để thúc đẩy nền KTTH cũng như mục tiêu tỷ lệ phát thải ròng bằng 0.
Thứ nhất, tạo lập một khung khổ mới cho sứ mệnh “phục hồi kinh tế xanh”. Sự phục hồi kinh tế từ Covid-19 mang lại cơ hội lịch sử để các quốc gia trên thế giới chuyển sang mô hình phát triển bền vững và bao trùm hơn. Việc phục hồi xanh có thể giảm phát thải khí nhà kính tới 25% so với kịch bản thông thường, đồng thời đảm bảo mục tiêu giữ nhiệt độ tăng dưới 2 độ C để phù hợp với thỏa thuận Paris.
Thứ hai, gắn kết KTTH trong việc phát triển các đô thị thông minh, thành phố thông minh, vùng duyên hải. Bởi lẽ, với 70% dân số sống ở các khu vực ven biển và vùng đồng bằng trũng thấp, việc di dời đến các thành phố và trong các thành phố đang nhanh chóng được đẩy nhanh. Trong 30 năm qua, tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam đã tăng gấp đôi lên 38% và đến năm 2050 ước tính lên tới 57%. Đối với các tỉnh khác ở Việt Nam ngoài thành phố Đà Nẵng, việc xây dựng một lộ trình KTTH cụ thể vẫn hiện thực hoá. Trong trường hợp đó, điều quan trọng là phải tiếp tục xây dựng hướng dẫn và đưa ra các giải pháp phù hợp để thúc đẩy nền KTTH cho các tỉnh đang trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2026. Đáng chú ý, ở các thành phố, ngành giao thông xanh có một vai trò rất quan trọng, nhất là khi có sự gia tăng của các loại xe điện.
Thứ ba, sản xuất và tiêu thụ bền vững và xanh. Ước tính có khoảng 45% lượng khí thải liên quan đến cách doanh nghiệp khai thác, tiêu thụ và chất thải vật liệu. Do đó, các chiến lược tuần hoàn là rất quan trọng để đạt được mức phát thải ròng bằng không. Đây là lý do tại sao 27% các bên tham gia Công ước của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) đã đưa nội dung đề cập đến KTTH trong các đóng góp do quốc gia quyết định.
Thứ tư, tăng tốc phát triển năng lượng tái tạo. Theo nghiên cứu, chi phí năng lượng tái tạo rất thấp. Điều này khiến giá năng lượng tái tạo đã giảm 89% trong 10 năm qua. Thêm vào đó, lần đầu tiên, gió và mặt trời tạo ra hơn 10% điện năng trên toàn cầu vào năm 2021. Việt Nam có tiềm năng to lớn để phát triển năng lượng tái tạo. Chỉ trong vòng 5 năm, Việt Nam đã mở rộng quy mô công suất năng lượng mặt trời từ gần như không có vào năm 2017 lên hơn 16.000 MW vào năm 2022, vượt xa các mục tiêu quốc gia. Không những vậy, Việt Nam cũng có tiềm năng điện gió đáng ghen tị, đặc biệt là gió ngoài khơi, với hơn 3.200 km bờ biển. Trong hai năm 2022 và 2023, chỉ riêng tại Sóc Trăng sẽ có 20 dự án điện gió được lắp đặt.
Thứ năm, đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau, quá trình chuyển đổi phải mang lại lợi ích người dân. Các chính sách KTTH và khí hậu sẽ có ý nghĩa đối với tương lai của việc làm. Một nghiên cứu gần đây của UNDP ở Indonesia cho thấy 75% trong số 4,4 triệu việc làm được tạo ra bằng cách áp dụng các cơ hội vòng tròn trong bốn lĩnh vực sẽ dành cho phụ nữ vì các lĩnh vực truyền thống sử dụng nhiều nam giới hơn (các ngành khai thác và xây dựng) sẽ bị thay thế. Điều này đồng nghĩa, Việt Nam cần đầu tư vào việc giáo dục thế hệ nữ kỹ sư, kiến trúc sư, nhà khoa học và nhà quy hoạch đô thị mới, những người sẽ tạo ra con đường chuyển đổi và thiết kế tương lai của tương lai. Nó cũng yêu cầu đào tạo lại và đào tạo lại những người đàn ông thay thế từ các lĩnh vực đang bị đóng cửa.
Diệp Anh