Đánh giá thay đổi đặc tính đất lên liếp trồng mít từ đất ruộng tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
12/12/2023TN&MTNghiên cứu đặc tính hóa học đất ở điều kiện lên liếp từ đất lúa lâu năm tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được thực hiện nhằm: Xác định sự thay đổi đặc tính hóa học đất sau khi lên liếp trồng mít từ đất lúa thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang; đánh giá các biện pháp quản lý bón phân cho cây trồng.
Mẫu đất được thu trước khi lên liếp và sau khi trồng mít 5 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đất lên liếp có dấu hiệu bị nén dẽ, pH đất thấp, chất hữu cơ giảm đi so với trước khi lên liếp.
Giới thiệu
Canh tác lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chuyển từ 1 vụ/năm sang thâm canh 3 vụ/năm đã góp phần vào đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh lợi ích kinh tế mang lại, các vấn đề đang được quan tâm là lên liếp trồng mít từ đất ruộng.
Nghiên cứu của các nhà khoa học cũng cho thấy việc lên liếp trồng mít đem lại hiệu quả kinh tế cho người dân trong điều kiện sản xuất hiện nay, tuy nhiên cũng đem lại không ít những khó khăn nhất định trong bón phân, chăm sóc cây và bảo vệ đất, đòi hỏi người dân phải bón vôi, phân hữu cơ vi sinh và một số phân chồng,... làm tăng chi phí đầu tư cũng nhưng kỹ thuật bảo vệ đất. Vì vậy, nghiên cứu đặc tính đất lên liếp trồng mít tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được thực hiện nhằm nghiên cứu và đánh giá sự thay đổi môi trường đất, góp phần cung cấp dữ liệu khoa học cơ bản về đặc tính hóa học đất ở những vùng chuyển đổi hình thức canh tác lúa thành đất trồng mít trong kh vực.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại xã Hậu Mỹ Trinh và xã hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, nghiên cứu được thực hiện thu mẫu đất vụ lúa tháng 3 năm 2016 (sau khi thu hoạch các ruộng lúa được lên liếp vào tháng 5/2016) và lấy mẫu đất trồng mít tháng 11/2022 (mít đã trồng được khoảng 5 năm).
Đất trồng lúa và lên liếp: Mẫu đất được thu trước khi lên liếp và sau khi lên liếp trên cùng một ruộng, Mỗi xã thu 3 ruộng ở độ sâu 0-20 cm, trộn đều các mẫu và làm sạch khi lấy một mẫu làm đại diện. Lặp lại 3 lần trên 3 ruộng, thu mẫu lại theo thời gian 5 năm trồng mít.
Các chỉ tiêu nghiên cứu: pH, chất hữu cơ, Dung trọng, N tổng, P tổng
Đo pHH2O: Trích bằng nước cất, tỉ lệ 1:2,5 (đất/nước), máy Thermo Orion model 105.
Dung trọng (g/cm3): Xác định dung trọng đất bằng cách dùng ống lấy mẫu (ring) với thể tích 98,125 cm3 đóng thẳng góc với mặt đất lấy mẫu ở trạng thái tự nhiên (không xáo trộn, nén dẽ đất).
Chất hữu cơ (%): Xác định bằng phương pháp so màu Walkley - Black dựa trên cơ sở oxy hóa chất hữu cơ bằng H2SO4 đậm đặc và K2Cr2O7. Chuẩn độ bằng FeSO4.
Tổng đạm trong đất (%N): Vô cơ hóa bằng H2SO4 đđ- salicylic -CuSO4-K2SO4-Se. Chưng cất Kjeldahl. Cụ thể như sau: Chuyển toàn bộ các dạng đạm hữu cơ, vô cơ về dạng amoni bằng cách công phá với H2SO4 đđ và salicylic , với sự tham gia của hỗn hợp chất xúc tác: CuSO4-K2SO và Se để giúp tăng nhiệt độ sôi và thúc đẩy quá trình ôxi hóa của các chất hữu cơ. Sau khi vô cơ hóa mẫu đất xong dùng NaOH đẩy NH3 ra khỏi (NH4)2SO4 và lượng NH3 này được giữ lại bởi dung dịch axit boric. Dùng H2SO4 đã biết trước nồng độ chuẩn độ từ đó tính được lượng N có trong mẫu.
P tổng số (%P2O5): Vô cơ hóa bằng H2SO4đđ - HClO4, hiện màu của phosphomolybdate với chất khử là acid ascorbic, so màu máy quang phổ bước sóng 880 nm.
Kết quả nghiên cứu
Dung trọng đất
Dung trọng ảnh hưởng đến quá trình thẩm thấu của đất, khả năng phát triển rễ cây, cũng như độ xốp, thoáng khí và khả năng cung cấp nước hữu dụng của đất,… Kết quả phân tích cho thấy, Dung trọng trung bình của đất ở điều kiện canh tác lúa từ 0,93 g/cm3 - 1,08 g/cm3 giá trị này nằm trong giới hạn thích hợp cho cây trồng. Dung trọng đất mặt liếp sau 5 năm trồng mít trung bình là 1,15 g/cm3 và 1,27 g/cm3. Theo kết quả phân tích cho thấy, đất ruộng chưa lên liếp phù hợp hơn với sự phát triển của cây trồng, so với đất lên liếp trồng mít, có thể khi lên liếp đất khô hơn và mất đi lượng hữu cơ từ rơm rạ sau mỗi mùa vụ, hay làm xáo trộn do quá trình lên liếp. Sau 5 năm trồng mít đất có dấu hiệu bị nén dẽ. Trồng mít người dân thường xuyên bón thêm phân hữu cơ và vôi, tuy nhiên dụng trọng đất không được cải tiện theo hướng có lợi cho cây trồng nếu thực hiện trong một thời gian ngắn.
pHH20 đất
Kết quả phân tích cho thấy, độ chua pH trước khi lên liếp trung bình là 4,02 - 4,07. Giá trị pH sau khi trồng mít đạt 4,7 và 4,7 so với thang đánh giá USDA (1983) cho thấy pH trong đất thuộc vào loại chua. Kết quả cho thấy, pH ở các vườn mít pH vẫn ở mức thấp. Người dân cần bón vôi để nâng pH cho các khu vực lên liếp trồng mít.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, pH biến động do đất trồng luôn có xu hướng bị chua do hoạt động của bộ rễ và do các phản ứng hóa học, sinh học xảy ra trong đất. Để hấp thu được dưỡng chất dưới dạng cation, rễ cây phải tiết ra ion H+ để trao đổi dưỡng chất với môi trường xung quanh. Ion H+ tích lũy dần làm cho pH đất giảm dần. Đồng thời, với áp lực thâm canh trong nông nghiệp, việc sử dụng phân vô cơ liên tục trong thời gian dài đặc biệt là phân đạm, lân đã làm giảm pH đất. Phân đạm với liều lượng cao trong nông nghiệp làm acid hóa đất, quá trình nitrate đã oxy hóa các hợp chất chứa nitơ, biến NH4+ thành NO3- nhờ vi khuẩn nitrate hóa và tạo ra ion H+ như một sản phẩm phụ (Lê Văn Khoa et al., 2000).
Hàm lượng chất hữu cơ trong đất
Kết quả phân tích hàm lượng chất hữu cơ trung bình trong ruộng canh tác lúa chưa lên liếp là 6,16% và 6,36%, Tuy nhiên, chất hữu cơ trong đất trồng mít trung bình ở mức 4,42-4,45%. Kết quả cho thấy quá trình trồng mít người dân chỉ tập trung phân bón và chất hữu cơ vào gốc mít chưa thật sự chú ý đến toàn bộ mặt liếp. Do đó, cần bón phân hữu cơ trên đất lập liếp liên tục trong nhiều năm liền giúp gia tăng lượng chất hữu cơ duy trì độ phì nhiêu của đất. Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng bón phân hữu cơ trên đất liếp ở Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian dài và với lượng lớn có thể cải thiện được hàm lượng hữu cơ trong đất (Võ Thĩ Gương và ctv, 2016).
Hàm lượng đạm NH4+-N trong đất
Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng đạm NH4+-N trong đất lúa trung bình 16,12 mg/kg và - 19,79 mg/kg. Hàm lượng NH4+-N trong đất mít là 7,45mg/kg cho thấy đạm trong đất vườn thấp sau thời gian trồng mít. Kết quả nghiên cứu thấy rằng quá trình lên liếp có thể làm mất đi một lượng đạm NH4+-N trong đất hoặc do tính chất của đất lên liếp khô, mất hữu cơ cũng là nguyên nhân làm cho hàm lượng đạm giảm hơn so với đất trồng lúa.
Hàm lượng lân tổng số trong đất
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng P tổng tại thời điểm trước lên liếp và sau khi lên liếp trồng mít không khác biệt. Hàm lượng lân trước khi lên liếp dao động từ 0,16% và sau 5 năm lên liếp trồng mít là 0,18%. Hàm lượng lân tổng cho thấy chưa có sự thay đổi điều kiện canh tác lúa và trồng mít.
Kết luận
Đặc tính lý hóa học đất nghiên cứu tại thời điểm trồng lúa và sau khi lên liếp trồng mít có sự thay đổi đang kể về dung trọng và chất hữu cơ. Tuy nhiên, có khuynh hướng tăng dung trọng, tăng khả năng thoái hóa đất nếu không có kế hoạch dài hạn bảo vệ đất. Một số chỉ tiêu đánh giá phì nhiêu đất như chất hữu cơ, tổng đạm, NH4+ và khả năng trao đổi cation trong đất giảm tại thời điểm sau trồng mít.
Điều kiện canh tác lúa có hàm lượng chất hữu cơ cao hơn so với quá trình chuyển đổi điều kiện canh tác lên liếp trồng mít.
Đề nghị
Người dân cần cân đối dinh dưỡng cho những vườn mít, đặc biệt chú trọng đến bón phân hữu cơ cho đất.
Tăng cường bón vôi để cải thiện pH đất, duy trì hữu cơ, duy trì đạm trong đất.
Tài liệu tham khảo
Dobermann A., and T.H.Fairhurst (2000). Rice: nutrient disorders and nutrient management. Potash and Phosphate Institute. Internation Rice Research Institute. Singapore. Makati city;
Hill, J.D, Brandon,G.M., Broader, S.M., Eke, A.U. (1999). Winter flooding and straw management: Implication for rice production. Agronomy progress report 1994-1996. p 5-25 no. 264;
Lê Văn Khoa (2000). Giáo trình Bạc màu đất và bảo tồn tài nguyên đất đai. Khoa NN & Sinh học ứng dụng. Trường Đại học Cần Thơ;
Ngô Ngọc Hưng (2004). Giáo trình thực tập thổ nhưỡng, Đại học Cần Thơ. 2004: 75 trang;
Nguyễn Mỹ Hoa, Lê Văn Khoa và Trần Bá Linh (2012). Giáo trình hóa lý đất. NXB Đại học Cần Thơ. 2012:118 trang;
Phan Nhựt Ái (2002). Điều tra hiện trạng canh tác và khảo sát ảnh hưởng của các biện pháp làm đất đến sự sinh trưởng và năng suất lúa Hè Thu tại tỉnh Vĩnh Long năm 2002, Luận văn thạc sĩ khoa học nông học. Khoa NN&Sinh học ứng dụng. Trường Đại học Cần Thơ;
Ponnamperuma, F.N. (1984). Straw as a source of nutrient for wetland rice. In ‘Organic matter and rice’. International Rice research Insitute, Los Banos The Philippines;
Võ Thị Gương, Nguyễn Mỹ Hoa, Châu Minh Khôi Trần văn Dũng và Dương Minh Viễn, 2016. Quản lý độ phì nhiêu đất và hiệu quả sử dụng phân bón ở ĐBSCL. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ.
NGUYỄN XUÂN DŨ
Đại học Sài Gòn
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 6 (Kỳ 2 tháng 3) năm 2023